banner 728x90

Lễ hội Lam Kinh năm 2024: Di sản văn hóa phi vật thể vô giá

23/09/2024 Lượt xem: 2475

Trong kho tàng di sản văn hóa xứ Thanh, Lễ hội Lam Kinh được ví như một viên ngọc quý với nhiều giá trị vô giá, đặc trưng. Lễ hội không chỉ lưu giữ nhiều giá trị độc đáo, mà còn là dịp để người dân đất Việt ôn lại và tự hào về truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước của các bậc tiền nhân.

Nghi thức rước kiệu tại Lễ hội Lam Kinh.

Lễ hội Lam Kinh gắn với Khu Di tích lịch sử Lam Kinh và vùng đất Lam Sơn. Năm 1433, sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà, được an táng ở Lam Kinh. Từ đây các điện miếu cũng bắt đầu được xây dựng.

Sách “Việt sử thông giám cương mục” đã ghi lại những lần xây dựng Lam Kinh: Năm 1433, vua Lê Thái Tổ mất, thi hài được đưa về Lam Kinh, an táng ở Vĩnh Lăng, tháng 12 cùng năm “các quan theo hầu về Tây Kinh dựng Miếu Điện Lam Sơn”. Đến tháng 4 năm 1434, vua Lê Thái Tông sai “Hữu bộc xạ Lê Nhữ Lãm đến Lam Kinh dựng miếu thờ Thái mẫu”. Cứ vài ba năm một lần, vua và các quan trong triều đình nhà Lê lại vào Lam Kinh hành lễ, để tưởng nhớ công đức khai sáng cơ nghiệp của vua Lê Thái Tổ. Các nghi thức hành lễ đều thực hiện nghi thức cung đình. Nghi thức cúng tế gồm: “Tế tẩm miếu dùng bốn con trâu, đánh trống đồng, quân lính reo hò hưởng ứng theo. Về nhạc võ thì múa nhạc “Bình Ngô phá trận”. Văn thì múa nhạc “Chư hầu lai triều”. Đại tư đồ Lê Bí đến làm lễ ở miếu Chiêu Hiến vương (tên là Học, anh ruột Lê Lợi) và Trung Dũng vương (tên là Thạch, con Lê Học) dùng ba con trâu. Thượng thư lệnh Lê Khang đến làm lễ ở miếu Hoàng Dụ vương (tên là Trừ, anh thứ hai của Lê Lợi) dùng một con trâu”.

Về phần hội, sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: Hoàng đế Lê Thái Tông “tưởng nhớ công lao của tiền bối, sáng tác điệu vũ bình Ngô”. Việc tổ chức diễn xướng điệu vũ bình Ngô được sách trên ghi lại khá cụ thể: “Năm Thái Hòa thứ 7 (1449) mùa Xuân tháng Giêng vua ban yến cho quan, múa nhạc bình Ngô. Công hầu có người xúc động phát khóc”; “Bảy năm sau (1456), vua Nhân Tông trong dịp về Lam Kinh bái yết Sơn lăng, đã cho đánh trống đồng, diễn khúc “Bình Ngô phá trận” và “Chư hầu lai triều”.

Nhiều trò diễn đặc sắc diễn ra tại Lễ hội Lam Kinh.

Trải qua nhiều biến cố, triều Lê sụp đổ và khu miếu điện Lam Kinh cũng theo đó mà suy tàn. Đồng thời, những nghi thức tế lễ mang tính cung đình cũng đã biến mất trong “đời sống” vùng đất Lam Kinh suốt một thời gian dài. Phải đến đầu thế kỷ XX, làng Lam Sơn mới dựng ngôi đền thờ ngay trên đất Lam Kinh, để thờ vua Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi, Lê Lai và Bạch Y Công chúa. Nhiều nghi thức lễ tế cũng dần khôi phục, được Nhân dân thực hành, gìn giữ. Có lẽ điều này đã tạo nên nét đặc trưng, khác biệt và hấp dẫn cho Lễ hội Lam Kinh, vừa mang tính cung đình, vừa mang tính cộng đồng.

Ngày nay, Lễ hội Lam Kinh diễn ra vào các ngày 21 - 22/8 âm lịch hàng năm gắn với lời nhắc nhớ: “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”. Lễ hội Lam Kinh được tổ chức với nhiều lễ nghi trang trọng và linh thiêng. Phần lễ với các nghi thức rước kiệu vua Lê Thái Tổ, kiệu Trung túc vương Lê Lai, đọc chúc văn, tấu cáo tiên tổ dâng hương tưởng niệm vua Lê Thái Tổ và nghĩa sĩ Lam Sơn. Ngoài các nghi lễ chính, lễ hội được tổ chức ấn tượng với chương trình nghệ thuật sân khấu hóa tái hiện lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với các dấu mốc quan trọng như Hội thề Lũng Nhai, Lê Lai cứu chúa, giải phóng thành Đông Quan, Lê Thái Tổ đăng quang cùng nhiều trò chơi, trò diễn độc đáo như trò Xuân Phả, múa rồng, trống hội, pồn pôông... Sự kết hợp của các trò diễn ấy đã cho thấy sức sống mãnh liệt trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Đồng thời, khẳng định Thanh Hóa là một vùng đất giàu truyền thống, một kho tàng văn hóa phi vật thể phong phú, sống động, giàu màu sắc, biểu cảm và cũng đầy tính nghệ thuật của người dân các dân tộc Thái, Mường, Kinh.

Lễ hội Lam Kinh không chỉ làm phong phú thêm sự đa dạng của văn hóa xứ Thanh, văn hóa dân tộc Việt, mà còn khẳng định vị trí của mình trong dòng chảy lịch sử, văn hóa và lòng người dân Việt.

Theo baothanhhoa.vn

 

Tags:

Bài viết khác

Làng gốm Bàu Trúc (Ninh Thuận) – nơi lưu giữ văn hóa truyền thống của dân tộc Chăm

Làng gốm Bàu Trúc là một trong những làng gốm cổ nhất Đông Nam Á còn tồn tại cho đến ngày nay, nổi tiếng với những sản phẩm gốm thủ công và kỹ thuật nung gốm độc đáo, mang đậm nét văn hóa Chăm.

Cặp tượng voi đá lớn nhất trong nghệ thuật điêu khắc Champa

Hai tượng voi đá được Thủ tướng công nhận bảo vật quốc gia đầu năm 2023, được giới thiệu cùng 12 bảo vật khác của tỉnh Bình Định hôm 21/11 . Hiện vật gồm một đực, một cái, nằm trong không gian lịch sử, văn hóa Champa, di tích thành Đồ Bàn (còn được gọi là Chà Bàn hoặc Vijaya) - kinh đô vương quốc Champa xưa. Cặp tượng có dáng vẻ sống động, được đặt phía trước "tử cấm thành", ở hai bên đường vào cổng lăng Võ Tánh.

Chùa Núi Nổi giữa đồng bằng

Nằm giữa đồng bằng, Phù Sơn tự (chùa Núi Nổi) tọa lạc tại ấp Giồng Trà Dên (xã Tân Thạnh, TX. Tân Châu), là một trong những điểm đến tâm linh nổi bật của vùng Tây Nam Bộ. Với kiến trúc độc đáo, ngôi chùa thu hút nhiều du khách từ khắp nơi đến chiêm bái.

Khám phá các di sản văn hoá độc đáo tại núi Bà Đen, Tây Ninh

Tại núi Bà Đen, các di sản văn hoá lâu đời mỗi ngày đều được gìn giữ và phát huy, đưa Tây Ninh thành điểm đến văn hoá hấp dẫn tại Nam bộ.

Chiêm ngưỡng Bảo vật Quốc gia tại Quần thể Di tích được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới

Quần thể Di tích Cố đô Huế là nơi lưu giữ những Bảo vật Quốc gia quý giá của triều Nguyễn.

Nghi lễ Lang Ndaw của người Chăm

Nghi lễ Lang Ndaw tạm dịch là Lễ tế trâu tôn chức ông Kadhar. Trong các chức sắc người Chăm thực hành nghi lễ trên đền tháp và các nghi lễ của dòng tộc, ông Kadhar đóng vai trò rất quan trọng trong việc hướng dẫn thực hành nghi lễ và hát thánh ca. Từ khi nhập môn, ông Kadhar trải qua các giai đoạn tấn phong rồi mới được phép làm chủ lễ và được mặc tấm chăn có đính hoa văn thổ cẩm. Diễn trình nghi lễ Lang Ndaw có các nghi lễ hiến tế con vật, cúng cơm, hát lễ và múa mừng.

Lễ hội Katê lung linh sắc màu văn hóa Chăm

Trong tín ngưỡng dân gian của đồng bào dân tộc Chăm có nhiều lễ hội, với những nghi thức tín ngưỡng độc đáo, như: Lễ Cầu đảo với nghi lễ truyền thống mở cửa biển, gợi những ký ức về biển của người Chăm; hay Lễ hội Ka tê đã được Nhà nước công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia… Không gian lễ hội của cộng đồng người Chăm luôn ngập tràn sắc màu văn hóa, từ trang phục, nhạc cụ, điệu múa truyền thống… đến tín ngưỡng dân gian.

Ngôi chùa Khmer xây bằng đá granit nằm ở độ cao 45m, được ví như chốn ‘bồng lai tiên cảnh’ giữa núi rừng

Đây là ngôi chùa có lối kiến trúc chứa đựng nhiều huyền tích của đồng bào dân tộc Khmer.
Top