banner 728x90

Lễ hội Lam Kinh năm 2024: Di sản văn hóa phi vật thể vô giá

23/09/2024 Lượt xem: 3154

Trong kho tàng di sản văn hóa xứ Thanh, Lễ hội Lam Kinh được ví như một viên ngọc quý với nhiều giá trị vô giá, đặc trưng. Lễ hội không chỉ lưu giữ nhiều giá trị độc đáo, mà còn là dịp để người dân đất Việt ôn lại và tự hào về truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước của các bậc tiền nhân.

Nghi thức rước kiệu tại Lễ hội Lam Kinh.

Lễ hội Lam Kinh gắn với Khu Di tích lịch sử Lam Kinh và vùng đất Lam Sơn. Năm 1433, sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà, được an táng ở Lam Kinh. Từ đây các điện miếu cũng bắt đầu được xây dựng.

Sách “Việt sử thông giám cương mục” đã ghi lại những lần xây dựng Lam Kinh: Năm 1433, vua Lê Thái Tổ mất, thi hài được đưa về Lam Kinh, an táng ở Vĩnh Lăng, tháng 12 cùng năm “các quan theo hầu về Tây Kinh dựng Miếu Điện Lam Sơn”. Đến tháng 4 năm 1434, vua Lê Thái Tông sai “Hữu bộc xạ Lê Nhữ Lãm đến Lam Kinh dựng miếu thờ Thái mẫu”. Cứ vài ba năm một lần, vua và các quan trong triều đình nhà Lê lại vào Lam Kinh hành lễ, để tưởng nhớ công đức khai sáng cơ nghiệp của vua Lê Thái Tổ. Các nghi thức hành lễ đều thực hiện nghi thức cung đình. Nghi thức cúng tế gồm: “Tế tẩm miếu dùng bốn con trâu, đánh trống đồng, quân lính reo hò hưởng ứng theo. Về nhạc võ thì múa nhạc “Bình Ngô phá trận”. Văn thì múa nhạc “Chư hầu lai triều”. Đại tư đồ Lê Bí đến làm lễ ở miếu Chiêu Hiến vương (tên là Học, anh ruột Lê Lợi) và Trung Dũng vương (tên là Thạch, con Lê Học) dùng ba con trâu. Thượng thư lệnh Lê Khang đến làm lễ ở miếu Hoàng Dụ vương (tên là Trừ, anh thứ hai của Lê Lợi) dùng một con trâu”.

Về phần hội, sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: Hoàng đế Lê Thái Tông “tưởng nhớ công lao của tiền bối, sáng tác điệu vũ bình Ngô”. Việc tổ chức diễn xướng điệu vũ bình Ngô được sách trên ghi lại khá cụ thể: “Năm Thái Hòa thứ 7 (1449) mùa Xuân tháng Giêng vua ban yến cho quan, múa nhạc bình Ngô. Công hầu có người xúc động phát khóc”; “Bảy năm sau (1456), vua Nhân Tông trong dịp về Lam Kinh bái yết Sơn lăng, đã cho đánh trống đồng, diễn khúc “Bình Ngô phá trận” và “Chư hầu lai triều”.

Nhiều trò diễn đặc sắc diễn ra tại Lễ hội Lam Kinh.

Trải qua nhiều biến cố, triều Lê sụp đổ và khu miếu điện Lam Kinh cũng theo đó mà suy tàn. Đồng thời, những nghi thức tế lễ mang tính cung đình cũng đã biến mất trong “đời sống” vùng đất Lam Kinh suốt một thời gian dài. Phải đến đầu thế kỷ XX, làng Lam Sơn mới dựng ngôi đền thờ ngay trên đất Lam Kinh, để thờ vua Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi, Lê Lai và Bạch Y Công chúa. Nhiều nghi thức lễ tế cũng dần khôi phục, được Nhân dân thực hành, gìn giữ. Có lẽ điều này đã tạo nên nét đặc trưng, khác biệt và hấp dẫn cho Lễ hội Lam Kinh, vừa mang tính cung đình, vừa mang tính cộng đồng.

Ngày nay, Lễ hội Lam Kinh diễn ra vào các ngày 21 - 22/8 âm lịch hàng năm gắn với lời nhắc nhớ: “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”. Lễ hội Lam Kinh được tổ chức với nhiều lễ nghi trang trọng và linh thiêng. Phần lễ với các nghi thức rước kiệu vua Lê Thái Tổ, kiệu Trung túc vương Lê Lai, đọc chúc văn, tấu cáo tiên tổ dâng hương tưởng niệm vua Lê Thái Tổ và nghĩa sĩ Lam Sơn. Ngoài các nghi lễ chính, lễ hội được tổ chức ấn tượng với chương trình nghệ thuật sân khấu hóa tái hiện lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với các dấu mốc quan trọng như Hội thề Lũng Nhai, Lê Lai cứu chúa, giải phóng thành Đông Quan, Lê Thái Tổ đăng quang cùng nhiều trò chơi, trò diễn độc đáo như trò Xuân Phả, múa rồng, trống hội, pồn pôông... Sự kết hợp của các trò diễn ấy đã cho thấy sức sống mãnh liệt trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Đồng thời, khẳng định Thanh Hóa là một vùng đất giàu truyền thống, một kho tàng văn hóa phi vật thể phong phú, sống động, giàu màu sắc, biểu cảm và cũng đầy tính nghệ thuật của người dân các dân tộc Thái, Mường, Kinh.

Lễ hội Lam Kinh không chỉ làm phong phú thêm sự đa dạng của văn hóa xứ Thanh, văn hóa dân tộc Việt, mà còn khẳng định vị trí của mình trong dòng chảy lịch sử, văn hóa và lòng người dân Việt.

Theo baothanhhoa.vn

 

Tags:

Bài viết khác

Tháp Trầm hương – biểu tượng văn hóa giữa lòng phố biển

Từ lâu, trầm hương được xem là món quà quý của thiên nhiên, kết tinh từ linh khí đất trời qua hàng ngàn năm. Không chỉ mang giá trị tâm linh, trầm hương còn là dấu ấn văn hóa đặc biệt của cư dân vùng duyên hải miền Trung.

Làng trống Bình An: Di sản lịch sử – văn hóa trường tồn của vùng sông nước

Làng nghề trống Bình An, thuộc xã Bình Lãng, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An cũ, (nay là xã Tân Trụ, tỉnh Tây Ninh), là một trong những làng nghề thủ công lâu đời nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Lễ hội Bánh giầy đình Lục Giáp - Di sản Văn hóa đặc sắc của tỉnh Ninh Bình

Lễ hội Bánh giầy đình Lục Giáp không chỉ có nghi thức dâng bánh giầy và tế lễ trang nghiêm mà còn tái hiện sức mạnh đoàn kết của sáu giáp qua các hoạt động rước kiệu, diễn xướng dân ca...

Chùa La Dương thờ Tam vị Thánh tổ

Chùa La Dương, phường Dương Nội, thành phố Hà Nội, thường được người dân gọi là chùa La (La Nhuế, Thiên Vũ Tự), xưa thuộc tổng Yên Dũng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Ngôi chùa này được mệnh danh là “Tứ Triều Lam Cổ Tự”.

Tháp Bánh Ít – Kiệt tác kiến trúc Chăm Pa giữa miền đất võ Bình Định

Nằm trên ngọn đồi thuộc thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định (nay là xã Tuy Phước 3, tỉnh Gia Lai), Tháp Bánh Ít là quần thể kiến trúc Chăm Pa cổ có niên đại gần một thiên niên kỷ. Với vẻ đẹp hùng vĩ, tinh xảo và giàu giá trị lịch sử – văn hóa, công trình được xem là kiệt tác kiến trúc tiêu biểu của nền văn minh Chăm Pa, đồng thời là một trong những điểm đến nổi bật của du lịch miền Trung.

Đào Cam Mộc – Từ công thần triều Lý đến Thánh Tổ làng Đào Xá

Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc, người có công đầu đưa Lý Công Uẩn lên ngôi Thái Tổ nhà Lý (1009), và dời đô từ Hoa Lư về Thành Đại La, lập kinh đô mới, đặt tên là Thăng long (1010), mở đầu một kỷ nguyên văn hiến, cường thịnh của nước Đại Việt, kéo dài suốt 216 năm (1009 – 1225). Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc đã có công đức, đưa người từ các vùng đến khai khẩn đất hoang, dựng nhà, đào kênh, mở đường, lập ra làng Đào Xá – xã Hoàng Long – huyện Phú Xuyên – Hà Nội ngày nay.

Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc: Đệ nhất khai quốc công thần triều Lý

Trong số những người có công đưa Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc và nhà sư Vạn Hạnh được xếp là Đệ nhất Khai quốc công thần triều đình nhà Lý.

Nước Mắm Phú Quốc – Tinh Hoa Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể Quốc Gia

Nghề làm nước mắm Phú Quốc khởi nguồn từ thế kỷ XIX, khi nghề đánh cá ven biển dần gắn liền với quá trình chế biến nước mắm. Theo một số tài liệu của người Pháp, Phú Quốc đã sớm trở thành trung tâm sản xuất nước mắm lớn của Việt Nam. Đến nay, nghề truyền thống này vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển, đóng góp vào đời sống của hàng ngàn cư dân trên đảo.
Top