banner 728x90

Di sản văn hóa phi vật thể là gì?

20/02/2025 Lượt xem: 2998

Di sản văn hóa vật thể và phi vật thể là gì? Ảnh: internet.

Di sản văn hóa nói chung bao gồm các sản phẩm và các quá trình của văn hóa được sáng tạo, thực hành, bảo vệ và trao truyền qua các thế hệ. Các di sản được coi như là tài sản văn hóa bao gồm vật thể như nhà cửa, công trình kiến trúc, các tác phẩm nghệ thuật; phi vật thể như nhà cửa, công trình kiến trúc, các tác phẩm nghệ thuật; phi vật thể như bài hát, âm nhạc, ca kịch, kỹ năng và tri thức truyền thống, tri thức về nấu ăn, về thủ công mỹ nghệ, lễ hội, thực hành nghi lễ dân gian… những biểu hiện văn hóa phi vật thể này có thể được ghi lại, mô tả lại, mang nhiều ý nghĩa đối với cộng đồng, nhưng không thể chạm vào được, hay lưu giữ bằng hình thức hiện vật vật thể ở trong các bảo tàng. Chúng chỉ được trải nghiệm thông qua con người, các nghệ nhân, những người thực hành, những người thưởng thức. Họ thực hành, trình diễn, thể hiện chúng bằng những hành động, động tác cụ thể (diễn tấu, chơi nhạc, tổ chức lễ hội).

Theo Công ước 2003, “di sản văn hóa phi vật thể” được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng cũng như những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được các cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người (Khoản 1, Điều 2, Công ước 2003).

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

Theo Luật Di sản Văn hóa (2009), “di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác” (Khoản 1, Điều 4, Luật Di sản Văn hóa).

Di sản văn hóa là sự kết hợp các yếu tố vật thể và phi vật thể. Mặc dù là hai khía cạnh không thể tách rời, nhưng các yếu tố vật thể thường được chú ý hơn trong quản lý di sản. Tuy nhiên, từ khi Công ước 2003 của UNESCO được nhiều quốc gia thành viên phê chuẩn, những vấn đề về quản lý di sản văn hóa phi vật thể ngày càng được quan tâm, chiếm vị trí ưu tiên trong việc đưa ra các bộ luật, hình thành hệ thống quản lý có sự tích hợp giữa di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Các hình thức quản lý hỗn hợp giữa vật thể, phi vật thể, mối quan hệ giữa chức năng quản lý nhà nước trong chỉ đạo, điều hành và vai trò chủ động của cộng đồng, các bên tham gia ngày càng được quan tâm và trở thành những vấn đề lý luận mang tính chung, phổ quát.

Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam

 

Tags:

Bài viết khác

Đào Cam Mộc – Từ công thần triều Lý đến Thánh Tổ làng Đào Xá

Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc, người có công đầu đưa Lý Công Uẩn lên ngôi Thái Tổ nhà Lý (1009), và dời đô từ Hoa Lư về Thành Đại La, lập kinh đô mới, đặt tên là Thăng long (1010), mở đầu một kỷ nguyên văn hiến, cường thịnh của nước Đại Việt, kéo dài suốt 216 năm (1009 – 1225). Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc đã có công đức, đưa người từ các vùng đến khai khẩn đất hoang, dựng nhà, đào kênh, mở đường, lập ra làng Đào Xá – xã Hoàng Long – huyện Phú Xuyên – Hà Nội ngày nay.

Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc: Đệ nhất khai quốc công thần triều Lý

Trong số những người có công đưa Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc và nhà sư Vạn Hạnh được xếp là Đệ nhất Khai quốc công thần triều đình nhà Lý.

Nước Mắm Phú Quốc – Tinh Hoa Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể Quốc Gia

Nghề làm nước mắm Phú Quốc khởi nguồn từ thế kỷ XIX, khi nghề đánh cá ven biển dần gắn liền với quá trình chế biến nước mắm. Theo một số tài liệu của người Pháp, Phú Quốc đã sớm trở thành trung tâm sản xuất nước mắm lớn của Việt Nam. Đến nay, nghề truyền thống này vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển, đóng góp vào đời sống của hàng ngàn cư dân trên đảo.

Mẹ Nam Hải Bạc Liêu – Chốn Thiêng Liêng Giữa Biển Trời Nam Bộ

Bạc Liêu – Không chỉ được biết đến với giai thoại về công tử hào hoa hay những cánh đồng điện gió nối dài đến tận chân trời, Bạc Liêu còn là điểm dừng chân tâm linh của hàng vạn du khách và Phật tử thập phương. Trong đó, Phật Bà Nam Hải – hay còn được người dân thân thương gọi là Mẹ Nam Hải – hiện lên như một biểu tượng thiêng liêng, chốn hành hương linh nghiệm bậc nhất miền Tây Nam Bộ.

Miếu Nổi Phù Châu – Di tích tâm linh độc đáo giữa lòng sông Vàm Thuật

Nằm biệt lập trên cù lao giữa sông Vàm Thuật, Miếu Nổi Phù Châu không chỉ là một địa điểm tín ngưỡng linh thiêng, mà còn là công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn văn hóa Việt – Hoa, hiếm có giữa lòng đô thị Sài Gòn hiện đại.

Tượng Chúa Kitô Vua – Biểu tượng tâm linh và điểm đến nổi bật của Vũng Tàu

Nằm trên đỉnh Núi Nhỏ (còn gọi là núi Tao Phùng), phường Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, tượng Chúa Kitô Vua từ lâu đã trở thành một trong những công trình tôn giáo quy mô lớn và ấn tượng nhất Việt Nam. Không chỉ là điểm hành hương linh thiêng của giáo dân, nơi đây còn là biểu tượng du lịch nổi tiếng, thu hút hàng triệu lượt khách mỗi năm.

Ché – Hồn cốt của người dân đại ngàn Tây Nguyên

Giữa âm vang rộn rã của cồng chiêng – di sản văn hóa phi vật thể thế giới – những chiếc ché rượu cần lặng lẽ đứng đó, như linh hồn văn hóa của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên.

Vẽ mắt cho thuyền – Hồn biển trong văn hóa ngư dân Việt

Trong dòng chảy lịch sử dân tộc, nghề chài lưới là một trong ba ngành nghề truyền thống đặc trưng của người Việt, bên cạnh nghề trồng lúa nước và nghề rừng. Cùng với đó, những phương tiện gắn liền với đời sống sông nước như thuyền, ghe, bè, thúng... không chỉ đóng vai trò là công cụ mưu sinh, mà còn là biểu tượng văn hóa, gắn liền với tín ngưỡng dân gian và phong tục truyền đời của cư dân miền biển.
Top