banner 728x90

Công bố Bảo vật Quốc gia bộ tượng Tam Thế Phật chùa Côn Sơn

27/03/2024 Lượt xem: 2518

Sáng 25/2, tại chùa Côn Sơn (TP. Chí Linh, tỉnh Hải Dương) đã diễn ra lễ công bố Bảo vật Quốc gia đối với bộ tượng Tam thế Phật chùa Côn Sơn.

Cũng trong ngày hôm nay TP Chí Linh chính thức khai hội mùa xuân Côn Sơn – Kiếp Bạc; tưởng niệm 690 năm ngày viên tịch của Đệ tam tổ Trúc Lâm Huyền Quang Tôn giả ( 1334 – 2024).

Bộ tượng Tam Thế Phật ở chùa Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương) là một trong 29 bảo vật quốc gia vừa được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận mang nhiều giá trị lịch sử, văn hóa. Ảnh Vĩnh Quân.

 

Chùa Côn Sơn – nơi lưu giữ bảo vật quốc gia

Chùa Côn Sơn thuộc khu di tích quốc gia đặc biệt Côn Sơn - Kiếp Bạc được khởi dựng từ cuối thế kỷ XIII, hoàn chỉnh ở thế kỷ XIV. Trong phật điện hiện còn lưu giữ những bộ tượng mang đậm giá trị lịch sử, văn hóa nổi bật nhất là bộ Tam Thế Phật.

Pháp thân là cái thân chân thật, cái đạo thể, pháp tính. Diệu là đẹp, sáng, sạch, tinh tế, nhiệm màu, thoát khỏi phiền não. Thường trụ là luôn luôn tồn tại, lúc nào cũng thế, không lệ thuộc vào bất kể điều kiện nào, không sanh, không diệt, không thay đổi, không gián đoạn…Nghĩa là thời quá khứ, hiện tại, vị lai tồn tại vĩnh hằng không bị lệ thuộc vào hình, danh, sắc, tướng của thế giới hữu hình, không lệ thuộc vào không gian và thời gian.

 

Tam Thế Phật là bộ tượng cổ nhất tại chùa Côn Sơn, là hiện vật gốc độc bản, được lưu giữ từ thời Lê trung hưng đến nay.

 

Một ý nghĩa khác gắn với tên gọi của các vị Phật này là "Tam Thế Tam thiên Phật", bao gồm "Quá Khứ Thế" có 1.000 vị Phật khác nhau đứng chủ, “Hiện Tại Thế” cũng gồm 1.000 vị Phật khác, “Vị Lai Thế” có 1.000 vị. Như vậy, tượng Tam Thế tuy chỉ có ba pho nhưng tượng trưng cho 3.000 vị Phật, ở ba đại kiếp (mỗi đại kiếp tương ứng 1.344.000.000 năm) mà không nhằm chỉ đích danh một vị Phật nào.

Bộ tượng này phản ánh đầy đủ cấu trúc của hệ tượng Tam Thế vốn là bộ tượng quan trọng hàng đầu trong các điện thờ Phật ở miền Bắc Việt Nam.

Bộ tượng Tam Thế Phật chùa Côn Sơn được tạo tác bằng gỗ, phủ sơn son, thếp vàng, gồm 3 phần: Thân tượng, tòa sen và bệ gỗ. Mỗi pho tượng cao từ 1,55-1,75m, nặng khoảng 100kg. Các pho tượng đều có những giá trị đặc biệt về lịch sử tạo dáng rất quý hiếm, là tác phẩm nghệ thuật có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu cho một phong cách, một thời kỳ lịch sử.

Kiến trúc tượng Phật độc đáo

Về nghệ thuật tạo hình, bộ tượng Tam Thế chùa Côn Sơn tiếp tục kế thừa phong cách tạo hình thời Mạc và tiêu biểu cho phong cách tạo hình tượng thời Lê trung hưng. Tượng được tạc với biểu tướng Sahasrâra (tướng trên đỉnh đầu) là khối cầu đứng độc lập. Kiểu thức tượng Sahasrâra dưới dạng một khối gần như tròn thường chỉ có ở tượng Phật thuộc “phong cách Mạc” (nửa cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII), hiện nay còn lại dưới 10 pho ở chùa Côn Sơn, chùa Thái Lai, Bà Tề (Hà Nội)... Tuy vậy, các tượng này vẫn đủ tư cách đại diện cho một phong cách riêng biệt, chưa chịu sự chi phối của hai dòng Phật pháp Tào Động và Lâm Tế, mà còn giữ được phong cách tạo tượng Phật từ thời Lý.

Đầu tượng có sọ trên nở, hàm thon hơn, mặt trái xoan. Theo một số nhà nghiên cứu dân tộc học mỹ thuật truyền thống, đây là một chi tiết để biểu hiện về sự phát triển cao độ của trí tuệ. Tóc tượng xoắn ốc, phủ đầy ở đầu và cả tóc mai xuống tới tận giữa tai, kín cả nhục kháo. Tượng có một bộ mặt mang nét chân dung chuẩn mực, gần gũi với khuôn mặt của người Ấn với sống mũi cao, thẳng, nguyệt mi cong, mắt nổi khối vồng, miệng cân phân đầy đặn, khóe miệng cong lên trên. Khuôn mặt có nhiều chi tiết thuộc về đạo mà vẫn hết sức đôn hậu, thanh tú. Đây là một khuôn mặt tự nhiên, chưa bị cường điệu để gắn với nhiều chi tiết cao quý do người thời sau thường áp đặt.

Thân tượng dày, ngực nở căng, bụng thon vừa phải, thế ngồi mềm mại, uyển chuyển, nhịp nhàng. Đặc biệt, áo cà sa như chỉ có một lớp và bó sát người như kế thừa từ phong cách nhà Lý.

Điều đặc biệt, Bộ tượng Tam Thế Phật chùa Côn Sơn đó là chiếc áo cà sa kiểu quấn mảnh vải từ vai trái vắt chéo xuống sườn phải để hở hẳn bờ vai, cánh tay và nửa ngực phải. Hiện tượng trật vai phải của những pho tượng này như để biểu thị sự tôn kính bề trên mà ở đây là Phật kính pháp. Trong kho tàng nghệ thuật cổ Việt Nam, tượng Tam Thế chùa nào cũng có, hầu hết tượng Phật khoác áo cà sa che kín người, hai nửa cân nhau, gọi là Tăng già lê (gồm áo mặc trong, áo mặc giữa và áo mặc ngoài). Nhưng kiểu khoác áo cà sa như bộ tượng Tam Thế Phật ở chùa Côn Sơn thì rất hiếm, trên cả nước chỉ còn ở chùa Hiệp Thuận (Phúc Thọ, Hà Nội).

Bộ tượng Tam Thế Phật chùa Côn Sơn là một trong không nhiều bộ tượng đẹp thời Lê trung hưng. Các pho tượng được chạm trổ rất kỹ, quan tâm tới từng chi tiết. Bộ tượng mang ý nghĩa về các lực lượng tự nhiên, phản ánh tục cầu mưa, cầu mùa, là khát vọng của người Việt vùng châu thổ Bắc Bộ. Yếu tố dung dị phóng khoáng của tâm thức bản địa đã Việt hóa những khuôn mẫu tôn giáo, tạo nên sự dung hội văn hóa trong ngôi chùa.

Tags:

Bài viết khác

Di tích Lịch sử - Văn hóa là gì? Tiêu chí, phân loại di tích lịch sử văn hóa

Di tích Lịch sử - Văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm, hiện vật, di vật, đồ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có liên quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá, xã hội một dân tộc, một đất nước. Di tích lịch sử - văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau:

Những nhạc cụ “thổi hồn” cho Di sản Văn hóa hát Then

Hát Then trong đời sống, văn hoá tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào Tày, Nùng, Thái vùng cao phía Bắc được ví là "điệu hát thần tiên", điệu hát của “Trời”. Nghệ thuật diễn xướng dân gian này ẩn chứa và phô diễn những giá trị lịch sử, văn hóa lâu đời. Trong hát Then, đàn Tính và chùm Xóc Nhạc là hai loại nhạc cụ không thể thiếu. Hai loại nhạc cụ này vừa có chức năng giữ nhịp, đệm cho hát, vừa có khả năng diễn tấu linh hoạt, đặc biệt còn được sử dụng như đạo cụ trong những điệu múa Then.

Điều kiện di tích lịch sử văn hóa được xếp loại là di tích quốc gia

Theo quy định tại Điều 29 Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi bởi khoản 10 Điều 1 Luật Di sản văn hóa sửa đổi năm 2009, việc phân loại di tích lịch sử và văn hóa phải dựa trên những điều kiện về giá trị lịch sử và văn hóa. Các điều kiện này được quy định rõ ràng nhằm xác định và bảo vệ các di tích có giá trị quan trọng đối với quốc gia và dân tộc. Cụ thể, các di tích được phân loại dựa trên bốn điều kiện cơ bản:

Thủ tục xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia

Di tích lịch sử Việt Nam đã được phân thành ba cấp khác nhau, nhằm phản ánh giá trị lịch sử, văn hoá và khoa học của chúng. Đây là một dạng di sản văn hoá vật thể, bao gồm các công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình hoặc địa điểm đó.

Phân cấp, phân quyền trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa

Ở Việt Nam, vấn đề phân cấp là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của quá trình cải cách nền hành chính nhà nước. Phân cấp quản lý có thể hiểu là vấn đề chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước, các bạn ngành Trung ương và địa phương. Theo Từ điển Luật học, phân cấp quản lý được định nghĩa là “Chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện thường xuyên, lâu dài, ổn định trên cơ sở pháp luật…

Lễ Hội Hoa Ban: Nét đẹp văn hóa vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Lễ hội Hoa Ban là một trong những sự kiện văn hóa đặc sắc của Việt Nam, phản ánh sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người, giữa các giá trị truyền thống và sự phát triển hiện đại. Với vẻ đẹp thuần khiết của hoa ban, cùng với những hoạt động văn hóa phong phú, lễ hội Hoa Ban hứa hẹn sẽ tiếp tục là một điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước.

Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể

Quản lý nhà nước với tính chất là một hoạt động quản lý xã hội. Quản lý nhà nước được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, là hoạt động chấp hành và điều hành có tính tổ chức chặt chẽ, được thực hiện trên cơ sở pháp luật, được bảo đảm thực hiện bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.

Mối quan hệ giữa các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể

Sự tập trung vào di sản văn hóa vật thể trong luật pháp và chính sách thường phải trả giá cho những mối quan hệ liên kết và không thể tách rời của các yếu tố vật thể và phi vật thể. Chẳng hạn, đối với việc xây dựng một ngôi nhà và bảo vệ một hiện vật nghi lễ cụ thể thì dễ dàng hơn nhiều so với việc nhận biết và nhận diện một ý tưởng, hay một hệ thống tri thức. Với di sản văn hóa vật thể, một cách dễ dàng hơn để nhận biết cái mất đi, hay sẽ bị hư hỏng.
Top