banner 728x90

Các mặt trái ngược trong nho giáo

09/06/2024 Lượt xem: 3378

Ý thức về tổ tiên, về mối liên hệ giữa tổ tiên và con cháu được dựng thành lý thuyết và “lễ thức hóa”: ở thời điểm muộn hơn. Chính hệ tư tưởng Nho giáo đã “có công thổi vào quan điểm bản địa mộc mạc này một triết lý, một tổ chức, một nghi thức, một niềm tin sâu sắc”. 

Trong quá trình Hán hóa, “nền văn minh trồng lúa nước ở châu thổ sông Hồng đã hòa với nền văn minh chung của Á Đông mà Trung Quốc là Trung tâm” trên mọi mặt, trong đó bao gồm cả phong tục, tín ngưỡng. Các nguồn sử liệu Trung Quốc có ghi về dòng người Hán di cư xuống phía nam suốt từ thời Tây Hán đến thời Đường, và sau này trở thành một bộ phận cư dân Việt Nam. Đó là chưa kể các chính sách, biện pháp nhằm đồng hóa dân Giao Châu của các chính quyền phong kiến phương Bắc. Từ đó, có ý kiến cho rằng, các nghi thức thờ cúng tổ tiên được tiến hành đầu tiên trong người Hán rồi dần dần sang người Việt. Văn hóa Hán với cơ sở lý luận là hệ tư tưởng Nho giáo đã tạo điều kiện thuận lợi cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được tồn tại và duy trì. Đó là những học thuyết có tính lý luận về gia đình – tế bào của xã hội, và “tề gia”được coi là một nấc thang của quá trình “tu thân”. Hơn nữa, lý thuyết Nho giáo đặc biệt đề cao chữ hiếu đến mức trở thành đạo hiếu. Hiếu là biểu hiện của nhân, hiếu gắn với trung, là nguồn gốc của trung. Khổng Tử nói: “Hiếu là để thờ cha mẹ, thuận là vâng mệnh người trên, đem những điều đó mà thi thố ra thiên hạ, thì không có điều gì là không làm được”.

Trong tư tưởng Nho giáo cũng có hai mặt trái ngược: một mặt, Khổng Tử cho rằng “Kính quỷ thần nhi viễn chi” (kính cẩn nhưng tránh xa quỷ thần), mặt khác lại nói: “Vị năng sự nhân, yên năng sự quỷ” (chưa biết thờ người sao biết thờ quỷ thần?). Như vậy, Nho giáo thừa nhận có sự tồn tại của linh hồn, có thiên mệnh, có quỷ thần, và đặc biệt là linh hồn tổ tiên. Khổng Tử đã phê phán: “phi kỳ quỷ nhi tế chỉ siển dã” (không phải quỷ thần của mình mà cúng tế là Xiểm nịnh) và chủ trương chỉ thờ linh hồn thuộc về mình (kỳ quỷ), cụ thể: vua thì thờ trời, đất; dân thường thì thờ tổ tiên./.

Ban Nghiên cứu Tôn giáo

 

Tags:

Bài viết khác

Tín ngưỡng thờ Mẫu: Nét đẹp văn hóa dân tộc

Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian mang sắc thái nguyên thủy và có chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc ta. Nói về nguồn gốc hình thành, một số nhà nghiên cứu cho rằng, tục thờ Thánh Mẫu có từ thời Tiền sử khi người Việt thờ các thần linh thiên nhiên kết hợp với tín ngưỡng thờ nữ thần rất phát triển trong xã hội mẫu hệ. Qua quá trình tiếp biến văn hóa, tín ngưỡng thờ mẹ thiên nhiên ban đầu đã hòa cùng các tôn giáo khác để trở thành một tín ngưỡng bản địa riêng có của Việt Nam.

Các nghi lễ trong thờ cúng tổ tiên của người Việt

Thờ cúng tổ tiên là một trong những phong tục truyền thống quan trọng trong văn hóa dân tộc Việt Nam. Đây là một cách thể hiện lòng hiếu thảo, tôn kính và nhớ về cội nguồn của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Các nghi thức, nghi lễ trong thờ cúng tổ tiên thường được thực hiện trong các dịp đặc biệt như Tết Nguyên Đán, ngày giỗ tổ, lễ cúng ông Công ông Táo, và nhiều dịp quan trọng khác. Dưới đây là một số nghi thức và nghi lễ phổ biến trong thờ cúng tổ tiên:

Văn hóa cúng tiền chủ trong tín ngưỡng dân gian

Trong tín ngưỡng dân gian, cúng tiền chủ là một phong tục phổ biến tại nhiều gia đình, đặc biệt vào các ngày Rằm, Mồng Một, Giỗ Tết hoặc khi có điều gì không ổn trong nhà. Người ta tin rằng tiền chủ là người đã sống và qua đời trước tiên trong ngôi nhà này, và dù thời gian trôi qua, ngôi nhà có thể chuyển từ tay gia chủ này sang gia chủ khác, nhưng tiền chủ vẫn luôn dõi theo và thỉnh thoảng quay về thăm ngôi nhà cũ.

Những nguyên tắc khi bốc bát hương thờ cúng: Quy tắc và ý nghĩa tâm linh

Trong tín ngưỡng thờ cúng của người Việt, bát hương (lư hương) đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nó không chỉ là một vật phẩm trang trí trên bàn thờ mà còn là nơi để giao tiếp giữa thế giới trần gian và thế giới tâm linh. Tuy nhiên, việc lập bát hương không phải là điều đơn giản, và có những nguyên tắc cần tuân thủ để việc thờ cúng được linh ứng.

Đình làng - thiết chế văn hóa tín ngưỡng

Đình làng có vị trí, vai trò quan trọng trong xã hội Việt Nam thời phong kiến, nhất là vùng đồng bằng Bắc bộ. Đình làng được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ra đời vào thời Lê –Mạc, là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng, một biểu tượng của tính cộng đồng, trung tâm văn hóa, hành chính của làng xã truyền thống.

Nhà Lớn Long Sơn và Lễ hội Trùng Cửu: Dấu ấn tín ngưỡng bản địa Nam Bộ

Mỗi năm, vào các ngày 7, 8 và 9 tháng 9 âm lịch, người dân đảo Long Sơn (TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũ, nay là xã Long Sơn, Tp. Hồ Chí Minh) lại nô nức hướng về Nhà lớn Long Sơn để tham dự Lễ hội Trùng Cửu – một trong những lễ hội truyền thống lớn và giàu ý nghĩa nhân văn bậc nhất của vùng đất biển này.

Tín ngưỡng Giàng Knée – Sợi dây thiêng liêng kết nối cộng đồng người Pa Cô

Đối với người Pa Cô nói riêng và đồng bào các dân tộc thiểu số miền Tây Quảng Trị nói chung, thế giới luôn tồn tại song song hai chiều không gian: trần thế và linh giới. Trong đó, vạn vật – từ con người đến cây cỏ, muông thú – đều có linh hồn và chịu sự chi phối của các thế lực siêu nhiên. Quan niệm này hình thành nên tín ngưỡng vạn vật hữu linh, gắn bó sâu sắc với đời sống văn hóa – tinh thần của cộng đồng.

Quan niệm về Thiên đường và Địa ngục trong tín ngưỡng dân gian của người Tày, Nùng

Trong hệ thống tín ngưỡng dân gian của người Tày và Nùng, tồn tại một vũ trụ quan phân tầng, nơi các lực lượng siêu nhiên được chia thành nhiều loại, cư ngụ tại các không gian khác nhau và có mối quan hệ tác động qua lại với con người. Một trong những biểu hiện đặc trưng là niềm tin vào các loại "phi" (ma, linh hồn), cũng như quan niệm về Thiên đường và Địa ngục (âm phủ).
Top