banner 728x90

Phong tục kết bạn “tồng” của người Tày

31/10/2024 Lượt xem: 2393

Phong tục kết bạn “tồng” của người Tày ở Cao Bằng là một phong tục có từ lâu đời, gắn kết những người có sự đồng điệu về tâm hồn, tính cách, muốn chia sẻ buồn vui với nhau trong cuộc sống.

Trong tiếng Tày “tồng” có nghĩa là “giống nhau”, “hợp nhau”. Khi hai người bạn muốn kết bạn “tồng” thường sẽ có nhiều sở thích chung, đồng điệu về nhiều mặt như: “Tồng” niên (cùng tuổi); “tồng” chí hướng (cùng chung chí hướng về học hành, thi cử, nghề nghiệp...); “tồng” sở trường (hát hay, nhảy đẹp, học giỏi...)... Họ chia sẻ với nhau về công việc và cuộc sống giống như anh em ruột thịt nên việc kết “tồng” là sợi dây gắn kết những người bạn trở thành thành viên trong gia đình.

Anh Đinh Hữu Thuật, xóm Khau Lùng, xã Đức Long (Thạch An, Cao Bằng) chia sẻ: Tôi và anh Đinh Văn Tính, xóm Nà Vài, xã Danh Sỹ (Thạch An) đã kết “tồng” gần 20 năm. Chúng tôi quen nhau từ khi còn nhỏ, có nhiều sở thích giống nhau, hợp nhau về tính cách và tâm hồn nên xin phép gia đình bố mẹ 2 bên chọn ngày kết làm bạn “tồng”. Sau khi kết “tồng”, chúng tôi càng thêm thân thiết hơn, các con của tôi và con anh Tính đều gọi hai chúng tôi là bố “tồng”. Mỗi khi gia đình tôi có việc, anh Tính luôn có mặt giúp tôi lo liệu chu toàn.

Người Tày chỉ kết một đến hai bạn “tồng” trong cuộc đời dù có nhiều bạn bè thân thiết. Kết “tồng” chỉ giữa nam với nam, nữ với nữ, không nhất thiết phải cùng dân tộc Tày, hay cùng họ. Để kết bạn “tồng” ngoài những điểm tương đồng cần phải thực hiện nghi lễ kết “tồng” chính thức ở mỗi gia đình. Hai bên gia đình chọn ngày lành tháng tốt, mỗi gia đình một ngày khác nhau để tổ chức lễ kết bạn “tồng” cho đôi bạn, các thủ tục của hai bên gia đình đều giống nhau. Lễ kết bạn “tồng” phải có sự chứng kiến của anh em, họ hàng thân thiết gia đình hai bên.

Kết bạn “tồng” là một phong tục mang giá trị nhân văn sâu sắc.

Trong ngày kết bạn “tồng”, người bạn đến gia đình đối phương nhận làm bạn tồng phải mang theo lễ vật là một con gà giò hoặc gà thiến, gà luộc, xôi, gạo tẻ, gạo nếp, bánh kẹo, hoa quả... Lễ mang theo phải đầy đủ với ý nghĩa sau này sẽ cùng ăn chung cơm, khó khăn, hoạn nạn có nhau và trở thành người một nhà. Sau khi thắp hương ra mắt tổ tiên, mọi người cùng ăn bữa cơm thân mật. Dưới sự chứng kiến, công nhận của ông bà, cha mẹ, người thân hai người chính thức như anh em ruột thịt trong nhà. Trước khi bạn “tồng” về, gia đình bên kia chuẩn bị sẵn lễ đáp lại gồm nửa con gà luộc, xôi, quần áo mới, bát, đũa, bánh kẹo... như một lời công nhận bạn “tồng” trở thành người thân trong nhà, những lễ vật đáp lại mang ý nghĩa sau này sẽ cùng trải qua hoạn nạn, khó khăn hay hạnh phúc, vui vẻ.

Sau khi kết “tồng”, họ coi nhau như anh em ruột thịt, thường xuyên qua lại cũng như tham gia tất cả mọi công việc cưới hỏi, ma chay của cả hai bên gia đình. Bạn “tồng” sẽ cùng nhau chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn, động viên nhau vươn lên trong cuộc sống. Nếu không may ông bà, cha mẹ mỗi bên qua đời, người bạn “tồng” cũng như một người con trong gia đình phải sắm lễ vật đến lễ tế và để tang. Đây là một phong tục rất độc đáo mà ít nơi có, mang giá trị nhân văn sâu sắc.

Ngày nay, nhiều phong tục, tập quán của người Tày ít nhiều bị mai một, tuy nhiên phong tục kết bạn “tồng” vẫn được lưu giữ vẹn nguyên, chứa đựng những giá trị nhân văn, cao đẹp về truyền thống đoàn kết tương thân, tương ái giữa con người với con người.

Theo baocaobang.vn

 

 

 

Tags:

Bài viết khác

Nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Mảng

Phong tục, tập quán của người Mảng phản ánh triết lý sống hòa hợp với tự nhiên, từ việc chăm sóc mùa màng đến các nghi lễ tôn thờ thần linh, thể hiện một triết lý sống cân bằng, nơi con người và thiên nhiên không chỉ tồn tại song song mà còn bổ trợ, duy trì sự sống lẫn nhau. Mọi hành động đều phản ánh sự kính trọng và thấu hiểu về mối quan hệ mật thiết giữa con người và thế giới tự nhiên.

Đôi đũa trong văn hóa người Tày

Từ bao đời nay, đôi đũa đã trở thành vật dụng rất quen thuộc trong bữa ăn hằng ngày, hơn nữa còn thể hiện bản sắc văn hóa trong đời sống và tập quán của người Tày.

Nét đặc trưng trong dân ca dân tộc Mông

Đồng bào dân tộc Mông vốn có văn hóa rất đặc sắc. Trong đó, dân ca là một nét văn hóa đặc trưng không thể không nhắc tới. Những tiếng hát dân ca từ bao đời nay vẫn được cất lên mỗi dịp sum vầy hay chia xa, lúc vui hay lúc buồn, thay cho tiếng lòng vời vợi chất chứa bao nỗi niềm và cảm xúc của mỗi người.

Nét đẹp trong trang phục truyền thồng của dân tộc Brâu

Cũng giống như các dân tộc Tây Nguyên, trang phục dân tộc Brâu có 2 màu đỏ và đen làm chủ đạo, không cầu kỳ, không sặc sỡ, mà đơn giản, hoà quyện với khung cảnh núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ vẫn toát lên vẻ thanh thoát với màu sắc tinh tế, nhẹ nhàng.

Lễ Mở cửa kho lúa của người Rơ Măm

Vào những ngày tiết trời chuẩn bị sang Đông, khi công việc thu hoạch lúa rẫy đã xong, khi hạt lúa, hạt bắp đã được đem về cất kỹ trong nhà kho, đây cũng là lúc người Rơ Măm làng Le, xã Mô Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum chuẩn bị các nghi thức cho việc tổ chức Lễ Mở cửa kho lúa.

Ghe ngo trong đời sống của đồng bào Khmer

Trong đời sống của đồng bào Khmer Nam Bộ luôn gắn liền với văn hóa lễ hội; trong đó ghe ngo là sản phẩm văn hóa, tinh thần, có giá trị to lớn đối với đồng bào. Chiếc ghe ngo gắn liền với văn hóa Khmer Nam Bộ, đua ghe ngo cũng vì thế chứa đựng nhiều yếu tố văn hóa tâm linh.

Trống, chiêng trong đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc

Trống, chiêng là bộ nhạc cụ có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống thường ngày và văn hóa tín ngưỡng truyền đời của đa phần đồng bào các dân tộc ở Sơn La. Nhạc cụ này gắn liền với mọi nghi lễ truyền thống, được coi là linh hồn trong văn hóa tinh thần.

Cúng việc lề – Nét văn hóa đặc trưng của người Việt vùng Tây Nam Bộ

Cúng Việc lề là nghi thức cúng truyền thống theo việc đã thành lề thói, thành lệ, được hình thành trong quá trình khai phá, khẩn hoang vùng đất Nam bộ của người Việt. Tín ngưỡng này không có ở miền Bắc và không rõ ràng ở miền Trung.
Top