banner 728x90

Bài 4: DI TÍCH LỊCH SỬ NÚI DINH

17/04/2024 Lượt xem: 2916

Núi Dinh được xem là ngọn núi cao và độc đáo nhất của tỉnh BR-VT. Sử sách ghi lại rằng, hồi đầu thế kỷ XX nơi đây vẫn còn là rừng nguyên sinh, với thảm thực vật nhiệt đới đa dạng, gồm nhiều loại gỗ hiếm: dâu, sao, bằng lăng, cẩm lai, sơn trà, chiêu liên, châm sừng, săng trắng, sến, gõ đỏ... Dưới tán rừng già là nơi cư trú của nhiều loài động vật như: hổ, khỉ, nai, dọc, gấu, heo, hoẵng, sóc, chồn, cầy hương, kỳ đà…

Trong quá khứ, núi Dinh từng ghi dấu bước đường di cư, quá trình khai phá vùng đất Nam bộ của người Việt. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, núi Dinh là căn cứ cách mạng của bộ đội ta, nên núi Dinh được xem là một địa chỉ về nguồn, được công nhận là di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia năm 1993.

Trên núi Dinh, sáng sớm không khí trong veo, mát mẻ, chiều tối se lạnh, đêm xuống sương phủ mờ…trên núi còn có cả những đồi thông rất thơ mộng giống như ở Đà Lạt, nên nơi đây được ví như “Đà Lạt của  Bà Rịa-Vũng Tàu”. Xa xa, lấp ló sau những vòm lá xanh thẫm của cây rừng là những ngôi chùa cổ với kiến trúc độc đáo, nằm ẩn khuất trên triền núi, tạo nên nét huyền bí linh thiêng. Toàn bộ khu vực núi với diện tích 60 km2 là sự kết hợp giữa vẻ đẹp tự nhiên và văn hóa phật giáo tâm linh. Với gần 100 ngôi chùa và các am thất xung quanh khu vực này đã tạo nên một quần thể không gian phật giáo.

Căn cứ Núi Dinh gồm 7 hang động:

1.Hang Dây Bí gồm: Hang Huyện ủy Châu Đức, Hang giao liên.

2. Hang Tổ

3. Hang Mai (chùa Ông Sáu Trọng, chùa Bà Huệ Tiên)

4. Hang chùa Ông Trọng

5. Hang Bưng Lùng.

6. Hang Dơi

7. Chùa Sầu Riêng.

1. Hang Dây Bí: Hang Huyện ủy và Huyện Đội  

Nằm ở độ cao 491m phía Đông Nam khu vực núi Dinh. Nơi đây là căn cứ hoạt động của Huyện ủy, Huyện Đội Châu Đức (Tỉnh Bà Rịa cũ). Ở đây có nhiều vòm đá, lòng hang rộng thông với nhau tạo thành vị trí rất hiểm trở, hang rộng 3m, dài 6m, lòng hang hẹp dần và sâu dần vào núi. Bên ngoài có cây rừng mọc um tùm. Cán bộ và chiến sĩ Huyện Châu Đức thường làm việc tại của hang, dưới các vòm đá. Cách 700m về phía Bắc là Hang giao liên nằm ở độ cao 450m, rộng 3m, dài 4m sâu vào trong núi 2,5m trong hang có suối chảy.

Hang Dây Bí nằm trên núi Dinh

2. Hang Tổ: Ở độ cao 200m là vòm đá rộng 4m, dài 12m, cao 1.9m. Ở giữa có bàn thờ xi măng đặt pho tượng Phật Thích ca Mâu Ni ngồi thiền trên đài sen. Hang Tổ có 2 ngách: 1 ngách ăn sâu vào sườn núi, rộng 1,5m, dài 5m, sâu gần 2m, ngách phía trên nằm sâu 6m, rộng 1,2m, cao 0,6m.

Chùa Hang Tổ nằm trên núi Dinh

3. Hang Mai: Nằm ở độ cao 254m phía Tây Bắc Núi Dinh, đây là một khu đất rộng cỏ tranh mọc um tùm thoải dần về phía Bắc. Phía trong có hang động ở phía Tây và Nam có suối chảy róc rách suốt ngày đêm. Trong thời kỳ chống Pháp và Mỹ khu vực Hang Mai có khá nhiều chùa chiềng gồm chùa Bà Huệ Tiên, Ông Sáu Trọng…cán bộ, chiến sĩ ta thường vào đây nghỉ ngơi. Gần Hang Mai cán bộ, chiến sĩ còn dựng lán trại để hoạt động, làm việc. Sau chiến dịch Mậu Thân1968 địch phát hiện căn cứ Hang Mai đã dùng bom B52, Bom xăng hủy diệt toàn bộ khu vực này. Tại Hang Mai địch dung mìn phá sạch cửa hang hiện nay chỉ để lại phế tích của chùa Ông Sáu Trọng và chùa Bà Huệ Tiên.

Chùa Hang Mai nằm trên núi Dinh

Chùa Ông Sáu Trọng: Chỉ còn lại nền nhà (rộng 6m, dài 18m) xung quanh được kè đá vững chắc. Ở tay phải còn một số cây điều, lê kina, dây trầu không…

Chùa Bà Huệ Tiên: Cách chùa Ông Sáu Trọng chừng 50m về hướng Tây ở đây chỉ còn lại bàn thờ, lối đi và nền chùa rộng 2m, dài 4m có bậc thang cấp đi lên bằng xi măng rộng 1m, dài 2m dẫn tới bàn thờ cao 1,2m, rộng 0,6m, dài 1m.

 Ngoài ra ở khu vực Hang Mai còn sót lại một vài hố bom hiện nay cây cỏ đã mọc um tùm.

4. Hang Chùa Ông Trọng: Là một mõm đá nằm trên độ cao 360m bên ngoài trồng cây sứ, hang có vị trí thuận lợi, có hai đường lên xuống chia làm 2 ngách. Ngách ngoài cao 2m, rộng 3,5m, dài 4,2m; ngách trong ăn xuống núi rộng 4m, dài 6m. Nơi đây là nơi dừng chân của Thị ủy Bà Rịa trên đường đi lên căn cứ Bưng Lùng.

5. Căn cứ Bưng Lùng: Nằm ở bên thung lũng núi Dinh độ cao 250m có nhiều cây Lùng (Lá dong) nên đặt tên cho căn cứ là Bưng Lùng. Nơi đây là hoạt động của cán bộ chiến sỹ Thị ủy Bà Rịa và Thị đội Bà Rịa vào những năm 1961-1967. Cán bộ và chiến sĩ ta làm nhà bằng gỗ, tre, mái lợp lá trung quân, xung quanh cho phên tre dài 7m, rộng 4m, cao 3m để làm việc và ở cách 5m về phía Tây là khu vực nhà bếp.

Hiện nay cỏ đã phủ lấp di tích. Ngoài ra còn có hai cái hầm tránh pháo, bom. Mỗi hầm rộng 2m, cao 2m, phía trên có nền đất đắp cao 0,5m dưới có 2 chiếc cọc để mắc võng có hai cửa để lên xuống hiện nay đã bị sập. Căn cứ Bưng Lùng có lúc lên tới 70 cán bộ, chiến sỹ hoạt động ở đây.  

Bia ghi dấu căn cứ kháng chiến của Thị ủy, thị đội Bà Rịa tại Núi Dinh

6Hang Dơi: Nằm ỏ phía Tây Nam núi Dinh ở độ cao 80m ở đây có nhiều dơi nên anh em gọi là căn cứ Hang Dơi. Hang chia làm 2 ngách, ngách trên và ngách dưới. Có một con đường ăn thông với hai ngách dẫn ra ngoài rừng dài 13m. Ngách dưới có bồn nước dài 4m, rộng 2m, cao 0,6m, có đặt pho tượng Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát rất cao 0,4m. Hang ăn sâu vào sườn núi 7m, dài 14m, rộng 11m. Ngách trên: rộng 9,5m có nhiều mái đá rộng 3 - 4m, dẫn lên ngách phía trên là con đường dài 10m, rộng 2m đi men hang. Tại Hang Dơi hiện nay có một am nhỏ thờ Phật ở ngách trên.  

Chùa Hang Dơi nằm trên núi Dinh

7. Căn cứ chùa Diệu Linh: Nơi đóng quân và chỉ đạo của Thị ủy Bà Rịa từ năm 1972 -1975. Nằm ở hướng Tây Bắc núi Dinh ở độ cao 160m. Căn cứ trước đây có lán trại bằng lá trung quân, bàn ghế làm bằng cây và tre để làm việc. Xung quanh cán bộ ta đào nhiều hầm chữ T dài 2,5m, ngang 2,0m, rộng 1,5m, sâu 1,6m, dày 0,6m.

Có hai lối lên xuống, dưới có thể mắc võng để trách bom và pháo.

Chùa Diệu Linh là cơ sở cách mạng cung cấp lương thực, thực phẩm của Thị ủy Bà Rịa trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Năm 1968 Chùa bị bọn đế quốc Mỹ hủy diệt, hiện nay chùa chỉ còn lại ngọn tháp cao 3 tầng và nền nhà rộng 10m, dài 30m. Tháp chùa Diệu Linh cao 6m, rộng 1,4m, xây bằng gạch xi măng, trang trí cánh hoa sen, mây cách điệu…

(Còn nữa)

Đào Quốc Thịnh

Tags:

Bài viết khác

Gìn giữ di sản văn hóa qua nghệ thuật múa dân gian Việt Nam

Trong kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, nghệ thuật múa dân gian chiếm một vị trí quan trọng, không chỉ là hình thức biểu đạt nghệ thuật mà còn là phương tiện chuyển tải những giá trị tinh thần, tín ngưỡng và bản sắc dân tộc. Từ miền Bắc đến miền Nam, mỗi vùng miền đều có những điệu múa đặc trưng, góp phần làm phong phú bức tranh văn hóa dân tộc Việt.

Khám phá khu di tích lịch sử văn hóa ngàn năm tuổi ở Bà Rịa – Vũng Tàu

Giữa miền đất Long Điền (Bà Rịa – Vũng Tàu) chan hòa nắng gió, khu di tích lịch sử – văn hóa Bàu Thành sừng sững như một nhân chứng lặng lẽ hàng nghìn năm lịch sử. Nơi đây, từng lớp dấu tích cổ xưa hòa quyện cùng nhịp sống hiện đại, tạo thành điểm đến độc đáo vừa gợi trí tò mò vừa làm dậy lên lòng tự hào về một vùng biên viễn oai hùng.

Lễ hội chùa Keo và 6 nghi thức độc đáo: Di sản văn hóa tâm linh Việt Nam

Nằm yên bình bên dòng sông Hồng thơ mộng, chùa Keo – tên chữ là Thần Quang Tự – tọa lạc tại xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Đây là một trong những ngôi chùa cổ kính, có giá trị lịch sử và nghệ thuật bậc nhất ở Việt Nam.

Làng nghề bánh tráng Trảng Bàng – Di sản văn hóa của người dân Nam Bộ

Nhắc đến Tây Ninh, người ta thường nghĩ ngay đến món bánh canh Trảng Bàng trứ danh. Thế nhưng, mảnh đất nắng gió này còn ẩn chứa một di sản văn hóa lâu đời: làng nghề bánh tráng phơi sương Trảng Bàng – nơi kết tinh tinh hoa ẩm thực và tâm hồn người dân Nam Bộ.

Người mở cõi – Vị khai quốc công thần đất Đồng Nai

Cách đây 327 năm, vào mùa xuân năm 1698, theo lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh dẫn binh thuyền xuôi dòng sông Sài Gòn rồi ngược dòng Đồng Nai, đặt chân đến vùng Cù Lao Phố. Với tầm nhìn chiến lược và phẩm chất của một nhà kiến thiết, ông đã nhanh chóng thiết lập dinh Trấn Biên, ổn định trật tự, khai sinh hệ thống hành chính cho vùng đất hoang hóa rộng lớn, mở đầu cho quá trình xác lập chủ quyền của Đàng Trong trên phần đất Nam Bộ ngày nay.

Lăng Văn Sơn: Nét chạm của di sản trong đô thị hiện đại

Giữa nhịp phát triển sôi động của vùng Tây Hà Nội, Lăng Văn Sơn – di tích lịch sử quốc gia tại xã Tân Hội, huyện Đan Phượng – vẫn là biểu tượng văn hóa, điểm tựa tâm linh và niềm tự hào của người dân địa phương. Nơi đây không chỉ gắn với vị tướng Văn Dĩ Thành – người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV – mà còn lưu giữ những giá trị trường tồn của vùng đất Tổng Gối anh hùng.

Hình tượng Dê trong văn hóa thế giới và nghệ thuật truyền thống Việt Nam.

Hình tượng con dê là một biểu tượng phổ biến trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, với ý nghĩa đa dạng từ tôn giáo, triết lý đến nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian. Tại Việt Nam, con dê không chỉ là động vật quen thuộc trong đời sống nông nghiệp mà còn giữ vị trí biểu tượng trong nghệ thuật tạo hình và kiến trúc truyền thống.

Bảo tàng – Thư viện Bà Rịa - Vũng Tàu: Hành trình đưa di sản văn hoá đến gần hơn với du khách

Không chỉ lưu giữ ký ức, di sản văn hóa còn là nhịp cầu kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa người dân và quê hương, giữa du khách và những câu chuyện lịch sử tưởng như đã lùi xa. Ở thành phố du lịch biển Vũng Tàu – hành trình ấy đang được tiếp nối sáng tạo và nhân văn qua nỗ lực không ngừng của Bảo tàng – Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Top