banner 728x90

Trống - Báu vật của người Jrai

31/05/2024 Lượt xem: 2371

Với dân tộc Jrai (Gia Lai), trống không đơn thuần là một loại nhạc cụ truyền thống mà trống còn được xem là một vật chứa đựng giá trị về vật chất cũng như tinh thần trong cuộc sống, nó mang ý nghĩa thiêng liêng trong sinh hoạt tín ngưỡng, là biểu hiện những đặc trưng cơ bản truyền thống văn hóa người Jrai tồn tại từ bao đời nay.

Trống - Báu vật của người Jrai

Trống của người Jrai được phân loại theo kích thước thành 3 nhóm chính: trống nhỏ gồm 3 hiện vật có chiều dài tang trống từ 24 cm đến 40 cm và đường kính mặt trống từ 14 cm đến 20 cm; trống trung gồm 8 hiện vật, có chiều dài tang trống từ 40 cm đến 60 cm và đường kính mặt trống từ 30 cm đến 45 cm; trống lớn gồm 13 hiện vật, có chiều dài tang trống từ 85 cm đến 110 cm và đường kính mặt trống từ 60 cm đến 100 cm.

Quy trình chế tác trống của người Jrai trải qua nhiều công đoạn hết sức công phu, phức tạp và phải tuân theo các luật tục, nghi thức thần linh một cách nghiêm ngặt. Trước hết là khâu tuyển chọn nguyên liệu, như đã nói ở trên tang trống được làm phần lớn từ thân cây gỗ sao, khác với tang trống của người Việt và một số dân tộc khác được làm từ gỗ mít và tang trống được ghép nhiều thanh lại với nhau. Khi chọn nguyên liệu làm trống người Jrai phải giết gà, heo để cúng.

Theo quan niệm khi chọn cây họ chỉ ước lượng đường kính, chiều cao của thân cây, tuyệt đối không được dùng thước để đo để tránh làm náo động thần cây. Trong trường hợp khi đi chọn chặt cây mà thấy rắn bò ngang qua đường thì phải lùi ngày lại để tránh điềm xấu xảy ra, hoặc khi chặt cây người ta thường kiêng kỵ đối với các trường hợp như cây đổ đè phải con vật nào đó (thỏ, sóc, chồn...), thân cây không nằm xuống đất, cây đổ mà ngọn chắn ngược dòng suối chảy hoặc bất chợt một con vật nào chạy ngang qua thân cây... đều bị coi là điềm xấu, cây này không thể dùng để làm trống.

Mặt trống, người Jrai thường sử dụng da của con trâu, bò để làm; thông thường người ta hay sử dụng da trâu để bịt mặt trống. Với quan niệm vạn vật, hiện tượng luôn luôn tồn tại song song hai mặt, âm-dương, đất-trời,... nên khi làm trống đặc biệt với loại trống lớn có đường kính mặt trống từ 0,8 mét đến 1,2 mét người ta sử dụng da của 2 con trâu (trâu đực và trâu cái). Khi trống được hoàn thành, 2 mặt trống người Jrai vẫn thường gọi là mặt đực và mặt cái. Mặt đực và mặt cái không những chỉ phân biệt dựa vào da trâu đực hay da trâu cái mà còn được phân biệt qua cấu tạo trên mặt trống (mặt đực có khoét lỗ thông hơi, mặt cái không khoét lỗ) và còn được phân biệt qua âm thanh phát ra khi đánh trống (đánh vào mặt đực có âm trầm, hào hùng; đánh vào mặt cái âm phát ra thanh, bay bổng).

Trống của người Jrai dù to hay nhỏ đều được làm từ gỗ nguyên thân và sử dụng kỹ thuật đục, đẽo, khoét rỗng thân cây được cắt ra và đục khoét tang trống tại nơi lấy cây. Người Jrai sử dụng các dụng cụ thô sơ như rìu, rựa... để đục khoét tang trống từ hai mặt dần dần vào, hoặc có khi người ta đốt lửa hai đầu cho cháy thâm vào từ hai bên sau đó dùng rìu, rựa để tu chỉnh và đục đến khi thông nhau. Sau khi tang trống được đục khoét xong người ta không đưa về nhà ngay mà để lại ở đó cho khô (trung bình khoảng 20-30 ngày), sau đó trở lại rừng và làm lễ rước trống về làng. Tiếp đến là công đoạn bọc (bịt, bưng) trống. Những người được tham gia bọc da trống phải là người biết đánh trống, thường là các già làng. Để làm căng mặt trống, người Jrai cũng dùng chèn, đai mây, búa gỗ, đinh ghim bằng tre để níu căng da trống. Trên tang trống người ta khoan nhiều lỗ để ghim đinh từ mặt trống cho đến giữa thân. Trước đây trống được bọc kín cả tang trống từ hai mặt vào và dùng bằng đinh tre hoặc đinh gỗ; càng về sau người ta chỉ bọc ở hai mặt trống, tang trống để trần và dùng đinh kim loại.

Trống thường do nam giới sử dụng và được biên chế cùng với cồng chiêng, chũm chọe, lục lạc… trong các dịp lễ hội của gia đình, cộng đồng như: lễ bỏ mả, lễ cúng cầu mưa, lễ mừng lúa mới… Đặc biệt đối với chiếc trống lớn người Jrai thường được sử dụng vào các nghi lễ tại nhà, họ không bao giờ hoặc cho phép ai đưa trống ra khỏi nhà, một phần vì kích thước lớn không thể di chuyển, một phần vì họ cho rằng nếu làm vậy rất tội lỗi và điều xui sẽ đến với những người thân trong gia đình. Người sử dụng trống thường là những người có uy tín, là người chỉ huy. Mỗi khi tiếng trống vang lên là sự báo hiệu cho dân làng biết có việc hệ trọng xảy ra.

Đối với trống trung, cũng do nam giới sử dụng do hai người vừa khiêng vừa đánh hoặc có bốn hay sáu người vừa khiêng vừa đánh dẫn đầu dàn cồng chiêng và vòng xoang. Có khi chỉ một người đeo ngang trống trước bụng, dùng tay vỗ trống, vừa đánh vừa múa theo tiết tấu, nhịp điệu của dàn chiêng. Riêng trống nhỏ khi sử dụng bằng cách quàng một sợi dây qua cổ và để trống ngang trước bụng, hai tay vỗ vào hai mặt trống; khi đánh không sử dụng cả bàn tay mà chỉ sử dụng các ngón tay để vỗ vừa di chuyển cùng dàn chiêng vừa đánh vừa nhảy nhót hay còn gọi là múa trống.

Người Jrai coi trống là một tài sản quý, là một vật thiêng liêng biểu thị tiếng nói của thần linh. Trống là một loại nhạc cụ gõ, đồng thời còn là phương tiện thông tin. Khi nghe tiếng trống vang lên theo nhịp điệu rộn ràng thì dân làng biết được nhà có việc vui để kéo đến uống rượu mừng. Còn khi nghe tiếng trống giật đứt quãng, dặt dìu nghe như đau đớn, ai oán thì dân làng đều biết đấy là báo hiệu nhà có chuyện buồn và cùng đến để sẻ chia...

Nguồn Dân tộc Việt

 

Tags:

Bài viết khác

Các hình thức diễn xướng trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Hầu bóng là một nghi lễ tiêu biểu và đặc trưng nhất của tín ngưỡng thờ Mẫu, vốn xuất phát từ người Việt ở Bắc Bộ, nhưng sau đó theo chân người Việt vào Trung Bộ và Nam Bộ, tạo nên những sắc thái riêng cho mỗi miền. Hầu bóng, nhìn từ góc độ văn hóa - nghệ thuật là một hình thức diễn xướng dân gian tổng hợp, một loại hình sân khấu tâm linh.

Lễ hội Nghinh Ông - Nét văn hóa đậm chất dân gian và lâu đời của người dân vùng biển Cần Giờ

Hàng trăm ghe đánh cá của ngư dân huyện Cần Giờ (Tp.Hồ Chí Minh) tham gia đoàn đưa - rước Nghinh Ông, cầu vụ mùa bội thu. Từng đàn hải âu bám theo ghe Nghinh ra khu vực làm lễ. Bên đường người dân lập hương án chờ Nghinh Ông về.

Sự tích hợp các giá trị văn hóa nghệ thuật trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Trong các loại hình văn hóa của con người có một dạng thức văn hóa khá đặc thù, đó là “văn hóa tôn giáo”, như văn hóa Phật giáo, văn hóa Gia tô giáo, văn hóa Ấn giáo và văn hóa Khổng giáo. Đối với một số tín ngưỡng hay tôn giáo sơ khai, chúng ta có thể dõi thấy những dạng thức văn hóa, những quá trình tích hợp văn hóa – nghệ thuật như vậy, trong đó tín ngưỡng thờ Mẫu là một ví dụ khá tiêu biểu.

Lễ hội Nghinh Ông Phú Quốc: Nét đẹp tín ngưỡng thờ Cá Ông của ngư dân đảo ngọc

Lễ hội Nghinh Ông Phú Quốc được xem là lễ hội dân gian lâu đời của ngư dân trên đảo ngọc. Hằng năm, lễ hội đều được tổ chức để tỏ lòng thành kính đối với Cá Ông, cũng như mong muốn một năm mưa thuận gió hoà.

Ý nghĩa tượng Phúc Lộc Thọ

Từ xa xưa, con người luôn tin vào sức mạnh của thần linh để cầu chúc cho niềm vui, tuổi thọ và sức khỏe. Đặc biệt, tượng Phúc - Lộc - Thọ luôn được tôn thờ để gắn kết với những điều tốt đẹp này.

Tín ngưỡng thờ cúng trong các nhà thờ họ ở vùng biển

Nhà thờ họ là một công trình kiến trúc truyền thống của người Việt, được xây dựng để thờ cúng tổ tiên của một dòng họ. Đây là nơi con cháu trong dòng họ tập trung vào những dịp quan trọng như ngày giỗ tổ, lễ Tết, hay các nghi lễ tôn giáo khác để tưởng nhớ và bày tỏ lòng thành kính với tổ tiên.

Những mặt hạn chế, tiêu cực của tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ lên đồng

Bản thân tín ngưỡng thờ Mẫu là hệ thống các tín ngưỡng ở các trình độ phát triển rất khác nhau, từ sơ khai, nguyên thủy như các hình thức thờ Nữ thần đến các hình thức phát triển cao hơn là thờ Mẫu Tam Phủ Tứ Phủ.

Vẻ đẹp văn hóa trong nghệ thuật múa dân gian của người Dao

Khởi nguồn từ đời sống lao động và những ước mơ về cuộc sống thanh bình, hạnh phúc, nghệ thuật múa dân gian của người Dao phản chiếu những góc nhìn văn hóa đa chiều về cuộc sống, tín ngưỡng và bản sắc văn hóa Dao.
Top