banner 728x90

Thành hoàng là người khai phá, lập làng

18/06/2024 Lượt xem: 2698

Ngôi đền thờ Nguyễn Công Trứ

Có một loại Thành hoàng vốn là người đầu tiên đi tìm kiếm, khai phá, di dân lập làng, đắp đê, xẻ ngòi, phòng trừ dịch bệnh, mở chợ, khai bến để buôn bán, giao lưu.

Với những nơi đất cũ thì thường sẽ gặp các vị Thành hoàng có công đắp đe chống lụt, khai mương, mở chợ, phòng trừ dịch bệnh…đó là các trường hợp:

  • Văn Dĩ Thành (thời Trần) giúp dân phòng trừ dịch bệnh, là Thành hoàng làng Thúy Hội, xã Tân Hội, huyện Đan Phượng, Hà Nội.
  • Quận công Bùi Nghiên Phổ có công giúp dân mở chợ, sau là Thành hoàng thờ ở đình Thị, Chúc Sơn, Chương Mỹ, Hà Nội.
  • Quận công Lê Bình (thời Lê) có công giúp dân đắp đê, xẻ ngòi, là Thành hoàng thôn cổ Nghĩa Hạ và Nghĩa Thượng, xã Thượng Đình, Đan Phượng, Hà Nội.

Còn với những nơi là đất mới vùng duyên hải thì thường gặp các vị Thành hoàng là người chiêu dân lập ấp, khai khẩn đất hoang.

Lễ hội đền Nguyễn Công Trứ

Điển hình là ở huyện Hải Hậu (Nam Định) và Tiền Hải (Thái Bình), Phát Diệm (Ninh Bình) là nơi Nguyễn Công Trứ có công lấp biển, lập ấp, khẩn hoang, sau này ông được thờ làm Thành hoàng ở nhiều làng. Ở các huyện khác như Trực Ninh, Nam Trực, Nghĩa Hưng, Mỹ Lộc, Giao Thủy, Xuân Trường thuộc tỉnh Nam Định cũng có nhiều vị Thành hoàng thuộc loại này. Đặc biệt, ở vùng ven biển, dân gian quan niệm Tống Hậu là vị Thủy thần chuyên phù hộ cho dân chống lụt bão, nên cũng được nhiều nơi thờ làm Thành hoàng.

Ban Nghiên cứu Tôn giáo

 

 

 

Tags:

Bài viết khác

Đền thờ Mẫu - Chốn linh thiêng ở kỳ quan Đèo Ngang

Nằm trên hành trình thiên lý Bắc – Nam, Đền thờ Mẫu Liễu Hạnh đã trở thành điểm đến tâm linh đầy huyền bí. Qua bao cuộc biến thiên, tích xưa “Công chúa Quỳnh Hoa giáng trần giúp dân bản tránh khỏi nạn dịch, xua đuổi thú dữ, dạy người trồng lúa…” vẫn trường tồn ở vùng đất sơn thủy hữu tình này.

Cúng, khấn, vái và lạy trong nghi lễ thờ cúng

Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương: Bản sắc văn hóa của người Việt Nam

Việc thờ cúng Hùng Vương đã ăn sâu, lan tỏa rộng khắp, nơi đâu có người Việt sinh sống thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên - thờ các vua Hùng được người Việt tôn vinh và thờ tự.

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.
Top