banner 728x90

Tạp văn: Bàu sen làng tôi

30/10/2025 Lượt xem: 2350

Một bên là những ngọn đồi nối tiếp nhau, chập chùng, một bên là cánh đồng rộng. Ở đó, giữa đồi và đồng có một cái bàu rất rộng và chạy dài đến cả chục cây số, quanh năm đầy nước, từ đầu tới cuối, đoạn nào cũng mọc đầy sen. Có lẽ do sen mọc nhiều nên từ thời xa xưa, người trong làng lấy sen để gọi tên bàu.

Nhà tôi ở cách cái bàu sen ấy không xa. Hồi còn bé xíu, khi biết chạy theo mấy anh chị trong xóm ra đồng thì tôi đã nhìn thấy sen nở rực cả bàu rồi. Theo những người lớn tuổi ở quê tôi thì cái bàu sen ấy có hàng trăm năm trước, trước cả khi những thế hệ cư dân đầu tiên của làng tôi đến vùng đất này lập nghiệp. Cũng từ thời xa xưa, một số người trong làng đã chia bàu sen ra để quản lý, chăm sóc rồi đợi đến mùa sẽ thu hoạch.

Điều lạ lùng là từ thời này qua thời khác, dù là mùa mưa hay mùa nắng, hạn hán, cái bàu bao giờ cũng đầy nước. Và ở đó, năm này đến năm khác, trở thành quy luật, cứ đến mùa xuân những đám sen úa tàn, tưởng như không sống được nữa trước mưa gió, bão lụt mùa đông, bất ngờ vươn lên khỏi mặt nước, tỏa lá xanh thẳm cả mặt bàu, để rồi đến những ngày hè, trên cái nền xanh ấy, bao đóa sen hồng tươi đã xòe ra thơm ngát cả một vùng.

Ngày xưa, khi các công trình thủy lợi chưa được xây dựng, máy bơm nước cũng chưa có, vào những ngày làm đồng, bàu sen đã trở thành nơi cung cấp nước lên ruộng. Chỗ này gàu sòng, chỗ kia gàu giai. Suốt cả ngày lẫn đêm, tiếng gàu đổ nước cứ thùm thụp, thùm thụp, để rồi những cánh đồng dưới cái nắng chói chang lúa bắt đầu lên xanh. Người dân quê tôi luôn coi cái bàu sen rộng ấy như sự ban tặng của đất trời. Không chỉ có việc cung cấp nước, mà dưới bàu cá cũng rất nhiều, đủ loại, và đây cũng là nơi có bao nhiêu le le, vịt trời cùng nhiều loài chim khác sinh sống.

Với lũ trẻ chúng tôi, cái bàu sen rộng đầy hoa là hình ảnh đẹp đã in đậm trong ký ức mỗi khi đi xa nhớ về quê nhà. Ông nội tôi thích uống trà ướp sen. Vào những mùa sen nở, trên chiếc thuyền nan nho nhỏ, ông cho tôi đi theo để hái những đóa sen thơm ngát, mang về. Những lá chè non khô cong cong, bỏ vào trong những đóa sen, cột chặt lại, mấy ngày sau đem ra, trà trở nên thơm ngát. Còn nữa, những hạt sen đến mùa thu hoạch, khi hái về bà tôi đã tách ra cả thúng, trắng ngần phơi ở đầu sân, rồi chuyển cho những nhà buôn mang về xuôi. Những hạt sen tươi chưa bóc vỏ, luộc lên - đó là món ngon mà có đứa trẻ nào trong làng cũng thích - ngầy ngậy, béo béo, bùi bùi, ăn hết hạt này lại muốn bóc hạt kia.

Cái bàu sen rộng của quê tôi, hết năm này đến năm khác tồn tại cùng cuộc đời người dân quê lam lũ. Đó là nơi chiều xuống những con cuốc đen lẻ bạn bất chợt kêu những tràng dài ú hoa, ú hoa; là nơi những con chim bìm bịp vỗ cánh màu đỏ thắm bên những lùm cỏ đưng, cỏ lác um tùm ven bờ để bắt rắn làm mồi. Đó là nơi chú Sáu Dơi, một người trong làng ngày nào cũng đội chiếc nón lá, đứng lặng lẽ trên bờ với chiếc cần câu rất dài, ném phao ra xa, chờ những con cá lóc dưới bàu sâu đớp mồi…

Những năm đánh Mỹ, chiến tranh diễn ra ác liệt. Làng trên, xóm dưới ở quê tôi đều cháy trụi, bà con ai nấy đều phải bỏ quê, gồng gánh ra đi lánh nạn. Ruộng đồng trở thành những bãi cỏ hoang. Nhưng bàu sen vẫn cứ thế, vẫn tồn tại. Để rồi ngày hòa bình, khi mọi người trở về, sau mùa đông tưởng chừng như tàn lụi, đến hè sen từ dưới đáy bàu lại vươn lên, tỏa lá rồi nở đầy hoa.

Chúng tôi lớn lên, mỗi đứa đi một nơi, nhưng cái bàu sen rộng là nơi không đứa nào có thể quên.

Tuần trước, đang mùa sen dày hạt, tôi về thăm quê. Buổi tối, chú tôi bảo, để chú ra bàu, lấy ít sen về nấu chè! Tôi xin đi theo. Hai chú cháu đi trên chiếc thuyền nhỏ của gia đình hàng ngày để sẵn bên mép bàu. Dưới trăng, những đài sen chứa đầy hạt nhô khỏi mặt nước được chú tôi bứt lên, bỏ vào lòng thuyền. Một lát sau, khi chúng tôi sắp về, bất chợt nghe ở đoạn bàu gần đó có tiếng hò của một người đàn bà ngân dài: “Hò ơ…ơ ơ… Anh ra đi khi mùa sen nở… Để em nhớ, em chờ biết thuở nào nguôi…”. Ai lại còn hò hát trên bàu vào giờ này? Tôi ngạc nhiên, hỏi chú.

- Cô Hường ở xóm dưới đó! Chú tôi trả lời rồi giải thích:  Hồi chiến tranh, cô Hường là du kích xã. Một lần, đội du kích, trong đó có người yêu của cô Hường đi ngang bàu sen này thì bị Mỹ đánh bom. Người yêu của cô Hường hy sinh, còn cô bị bom ép, chết đi sống lại. Khi đất nước hòa bình, mọi người trong làng cố giúp đỡ, chạy chữa, nhưng vì bị chấn thương nặng quá nên tính tình cố ấy không được bình thường. Vào những mùa sen, khi trăng lên, cô Hường hay chèo thuyền ra giữa bàu rồi một mình hò…

Khi chú tôi đẩy thuyền, cột vào chiếc cọc tre ven bờ, tôi vẫn còn nghe tiếng hò của cô Hường vọng vào: “Hò ơ….ơ…ơ… Trăng lên, trăng ở trên cao. Người ơi… người ở phương nào có hay…”.

Lan Hương

 

 

Tags:

Bài viết khác

Tạp văn: Hạnh phúc giản đơn

Có một buổi chiều vô tình nhìn thấy trên facebook của một người bạn tấm ảnh bạn đang nhổ tóc bạc cho mẹ. Trong ảnh, mẹ và con cùng cười. Hạnh phúc đôi khi chỉ giản đơn thế thôi, cho dù có thể bao ánh nhìn vào đó mang nhiều ngẫm ngợi về sự hạn hữu của thời gian, của đời người.

Tạp văn: Đâu rồi những tiếng rao đêm

Ngày đầu đến Huế trọ học, tôi thích thú khám phá thế giới hàng rong ở xứ này, từ các loại bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc đến chè, bánh canh, bún hến, trứng lộn, bánh bao… Có bao nhiêu thứ hàng rong là có bấy nhiêu tiếng rao gọi mời.

Tạp văn: Sống vội

Tôi vẫn thường có thói quen ngồi một mình nơi góc quán cà phê cạnh ngã tư đèn đỏ và lặng lẽ ngắm người người cùng xe cộ ào ạt trôi đi mỗi ngày. Cho mình chậm lại một phút giây mới thấy con người và đời sống xung quanh dường như đang lao đi quá vội.

ĐỀ THI GIỮA KỲ 2 MÔN NGỮ VĂN LỚP 10 (năm học 2024 - 2025)

Đào Quốc Thịnh bắt đầu viết văn, viết báo từ năm 1996 với nhiều thể loại: truyện ngắn, phóng sự, ký sự. Ngoài ra ông còn viết kịch bản phim tài liệu. Gần 30 năm cầm bút, ông có gần 50 truyện ngắn, trong đó có cả truyện ngắn viết cho thiếu nhi và hàng trăm tác phẩm báo chí có giá trị.

ĐỀ THI KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG MÔN NGỮ VĂN LỚP 9 (năm học 2024 - 2025)

Đào Quốc Thịnh được biết đến với phong cách sáng tác chân thực, sắc sảo và tinh tế. Ông thường sử dụng ngôn ngữ đơn giản, gần gũi với người đọc để truyền tải những thông điệp sâu sắc về con người và xã hội.

Tản văn: Nhớ mùa mía năm xưa

Ai đã từng sống ở vùng quê trồng mía chắc chắn sẽ biết đường non là gì, và bánh tráng nhúng vào đường non, khi ăn sẽ thấy nó ngon thế nào. Với tôi, mỗi lần đi qua những vùng trồng mía, trước mắt lại hiện ra hình ảnh cái chòi ép mía, nấu đường nằm trên mảnh đất nhỏ bên con đường ở đầu thôn cùng bao hình ảnh đầy yêu thương lúc mình còn bé.

Tạp văn: Ký ức chợ quê

Chợ quê xưa ở làng tôi có thể nhóm họp trên mặt đê, ở bãi đất trống, ven đường, hay giữa đình làng... Chợ quê chỉ có dăm cái lều thấp lợp rạ mỏng, vài dãy quán ngói... mà hầu hết người mua, người bán đều đứng hoặc ngồi giữa trời, nó chỉ sôi động, ồn ào một chốc lúc buổi sáng hay chiều hôm, rồi lại tan chợ.

Tản văn: Mùa đông in dấu tuổi thơ

Những cơn mưa mịt mù của mùa đông làm những gốc rạ vừa gặt xong nhanh chóng đâm chồi. Trong mưa, chồi lúa vẫn vươn lên xanh mướt. Còn anh em tôi có cơ hội đeo lủng lẳng cái giỏ bên hông, lội ruộng mà bắt ốc, bắt cua.
Top