banner 728x90

Quan niệm về thần linh trong đời sống của người Ba Na

29/06/2024 Lượt xem: 2714

Cũng như các tộc người khác, người Ba Na đều tin rằng mọi thứ xung quanh họ đều có sự hiện hữu của thần linh (yang), chi phối họ, quy định những suy nghĩ, hành động của họ. Tận sâu thẳm trong tâm thức của mình, người Ba Na rất sợ các vị thần linh và họ không hề bỏ qua những nghi lễ cúng tế để làm vừa lòng các vị thần.

Trong hệ thống tín ngưỡng của người Ba Na, sự sống hiển hiện như một thể thống nhất và là sự sắp đặt từ bàn tay của thể đôi thần linh tối cao Bok Kei Dei và Yă Kuh Keh. Họ đồng thời cũng là những vị thần chủ trì nhịp điệu nông nghiệp. Với người Ba Na, chỉ ở những vị thần ấy mới có đủ các đức tính: nhân từ, vĩnh hằng, tối cao tuyệt đối, là người sáng tạo ra tất cả và mọi sự sống đều từ đó mà có, coi sóc con người và mùa màng. Người vợ Yă Kuh Keh làm nên trời đất, còn chồng Bok Kei Dei làm ra mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú rồi đính chúng lên trời.

Ngoài thể sóng đôi Bok Kei Dei - Yă Kuh Keh, người Ba Na còn có thể sóng đôi khác là yang Măt Na - yang Măt Khei (thần mặt trời - thần mặt trăng). Người Ba Na có nhiều huyền thoại khác nhau để lý giải về sự nóng nảy của mặt trời hoặc sự dịu mát của mặt trăng. Thần mặt trời là nữ thần của sự sinh sản và phì nhiêu. Mặt trời sưởi ấm, ủ ấm, làm cho lúa ra bông chắc hạt; soi sáng cho con người thấy đường lên rừng, lên rẫy. Thần mặt trăng luôn gần gũi với người lao động, buớc đi của thần trở thành nhịp sống của con người, giúp con người nhận biết thời gian trôi chảy để cấy trồng hay tổ chức các nghi lễ. Sự sống của mặt trời và mặt trăng cũng là sự sống của muôn loài trên mặt đất.

Trong tín ngưỡng của người Ba Na, vị trí của thần lúa (yang sri) cũng như việc thờ cúng, cây lúa luôn chiếm một vị thế đặc biệt. Tín ngưỡng thờ thần Lúa có mặt khắp nơi trên thế giới, người ta gọi mẹ thần Lúa là mẹ Lúa, người ta gắn thần Lúa với hình ảnh của người phụ nữ.

Với người Ba Na, đáng sợ nhất là thần Sấm Sét (Bok Glaih). Thần được hình dung như một người khổng lồ, thân thể cao lớn với dáng vẻ bên ngoài dữ tợn, thần luôn mang bên mình chiếc rìu đá phóng sét. Trong tín ngưỡng của người Ba Na, bị sét đánh là một điều xui xẻo, một tai họa không chỉ cho người bị hại mà còn cho cả dân làng. Lúc ấy mọi người sẽ phải làm nghi lễ cúng tạ thần Sấm thật lớn để mong thần tha tội bởi họ nghĩ rằng đã làm điều phật ý thần.

Luôn thân thiện và được người Ba Na yêu mến là thần Nước (yang Đăk). Bởi cũng giống như họ, thần hiền hoà, yêu ca hát và thích hội hè của con người. Trong đời sống hằng ngày của người Ba Na có nhưng nghi thức kiêng cữ liên quan đến việc bảo vệ sự thuần khiết cho nguồn nước.

Với người Ba Na, lửa được xem là vị thần đầy quyền uy bởi khả năng phá huỷ ghê gớm của nó. Sự trừng phạt của ngọn lửa thường là nghiệt ngã trong ngôi nhà mà mọi thứ vật liệu được dùng là tre nứa. Cái chết cháy với người Ba Na được xem là cái chết dữ và đôi lúc người Ba Na buộc phải bỏ lại phía sau mình ngôi làng cũ để đến lập làng ở một nơi mới. Vì vậy, khi chuẩn bị đốt rẫy để bắt đầu cho mùa trồng tỉa, bao giờ người Ba Na cũng cầu khấn thần lửa (yang Unh) để mong thần ban cho con người ngọn lửa quý báu giúp rẫy cháy đều, có nhiều tro để cho mùa màng tươi tốt để cuộc sống con người luôn được bình yên, hạnh phúc.

Ngoài các vị thần kể trên, người Ba Na còn vô số các vị thần khác như thần Rừng (yang Bri), thần Đất (yang The), thần Đá (yang Tmo), thần Núi (yang Kông), thần Sông (yang Krong), thần Nồi (yang Go), thần Sắt (yang Mam), thần Chiêng (yang Ching). Mỗi thần có một công việc cụ thể, một sự sắp đặt, phân công sẵn của đấng tạo hoá Bok Kei Dei- Yă Kuh Keh. 

Nguồn:quehuongonline

 

 

Tags:

Bài viết khác

Những loại hoa, quả nên thắp ngày Tết Đoan Ngọ

Chọn đúng hoa, chọn kỹ quả vào ngày Tết Đoan Ngọ không chỉ để dâng lên tổ tiên mà còn thể hiện sự hiểu biết, giữ gìn nếp nhà và bản sắc truyền thống giữa nhịp sống hiện đại.

Đền thờ Mẫu - Chốn linh thiêng ở kỳ quan Đèo Ngang

Nằm trên hành trình thiên lý Bắc – Nam, Đền thờ Mẫu Liễu Hạnh đã trở thành điểm đến tâm linh đầy huyền bí. Qua bao cuộc biến thiên, tích xưa “Công chúa Quỳnh Hoa giáng trần giúp dân bản tránh khỏi nạn dịch, xua đuổi thú dữ, dạy người trồng lúa…” vẫn trường tồn ở vùng đất sơn thủy hữu tình này.

Cúng, khấn, vái và lạy trong nghi lễ thờ cúng

Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương: Bản sắc văn hóa của người Việt Nam

Việc thờ cúng Hùng Vương đã ăn sâu, lan tỏa rộng khắp, nơi đâu có người Việt sinh sống thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên - thờ các vua Hùng được người Việt tôn vinh và thờ tự.

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).
Top