Ngay sau khi hiệp định Paris có hiệu lực, Ngụy quân, Ngụy quyền đã triển khai “Kế hoạch Hùng Vương”, “Kế hoạch Lý Thường Kiệt” với mục tiêu diệt các lực lượng vũ trang và lực lượng cách mạng của ta. Chúng tấn công lấn chiếm một số vùng giải phóng, lấn chiếm những vùng ta làm chủ trước khi có hiệp định, cưỡng ép nhân dân phải sơn cờ Ngụy trên nóc nhà, trước cửa. Chúng muốn chứng tỏ rằng, nơi đâu có “Cờ ba que” thì nơi đó do chúng kiểm soát. Địch còn ra sức củng cố và lập lại các đội phòng vệ dân sự, đôn dân vệ thành bảo an để bọn bảo an làm nhiệm vụ cơ động. Các xã ấp dọc lộ 15, địch tung tình báo, phượng hoàng và bọn tâm lý chiến tuyên truyền xuyên tạc Hiệp định, đánh vào các cơ sở cách mạng.
Từ ngày 7 đến ngày 10 tháng 1 năm 1973, Thường vụ trung ương Cục miền Nam đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ cách mạng của miền Nam trong tình hình mới là “Phải nắm lực lượng vũ trang, đứng vững và sẵn sang trên thế quân sự tiến công địch liên tục bằng chính trị, binh vận, đồng thời tận dụng và hết sức phát huy cơ sở pháp lý có lợi cho ta”.
Nắm được âm mưu, thủ đoạn của địch, ngay từ đầu Tỉnh ủy Bà Rịa – Long Khánh đã chỉ đạo: ”Trên cơ sở vận dụng tốt khẩu hiệu trung tâm chính trị hòa hợp và hòa giải dân tộc gắn liền với chính sách 10 điểm của chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, đẩy mạnh tấn công chính trị, binh vận, và phải kiên quyết diệt bọn ác ôn, bung ra lấn chiếm, thọc sâu diệt ác phá kềm, nâng quyền làm chủ trong dân, mở rộng vùng gải phóng”.
Huyện ủy đã nhanh chóng triển khai học tập tài liệu mang tên “huyện xã làm gì khi ngưng bắn” cho cán bộ, chiến sĩ và cơ sở cốt cán, đồng thời phân công các đồng chí trong Huyện ủy về bám trụ ở các xã, chống địch lấn chiếm, quyết tâm giữ vững và mở rộng vùng giải phóng.
Huyện ủy đã kịp thời chỉ đạo cho cán bộ, đảng viên và chiến sĩ trong toàn huyện tích cực chủ động tiến công địch, khắc phục tư tưởng “hòa bình”, “sợ gian khổ hy sinh”, kiên quyết bảo vệ vùng giải phóng. Huyện ủy chủ trương đưa cán bộ, chiến sĩ tiếp tục bám trụ cơ sở, xây dựng lực lượng bên trong, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác phá kìm, phá vỡ âm mưu bình định của địch. Chuẩn bị cơ sở hậu cần thu mua hàng trăm tấn gạo, lập kho dự trữ, chuyển một số dân về vùng Hắc Dịch để sản xuất.

Ảnh minh họa.
Nhằm ngăn chặn tuyến hành lang vận chuyển của ta từ Đồng Don, Đồng Dầu, đồng Châu Pha về căn cứ huyện và tỉnh, địch đưa một đại đội lính bảo an đến chốt đóng tại núi Đồng Nghệ, lập đài quan sát khống chế các hoạt động của ta trên các tuyến đường liên lạc quanh khu vực nam Lộ 2. Huyện ủy và Huyện đội Châu Đức hạ quyết tâm phải tiêu diệt bằng được đồn này. Đội trinh sát huyện gồm 5 đồng chí do đồng chí Mười Tép chỉ huy được giao nhiệm vụ tổ chức đánh, cơ sở của ta là bà Hai Đồng theo dõi qui luật đi lại của địch và các lối mòn trên núi báo cho anh em trinh sát nắm.
Thực hiện chỉ đạo của huyện, Đôi du kích và đội công tác di cư xã Phước Hòa vẫn kiên quyết bám trụ ở ấp Hải Sơn từ đợt “chồm lên chiếm lĩnh” đêm 22 tháng 1 năm 1973. Đến 5 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, bất chấp tinh thần nội dung của Hiệp định, địch tiếp tục các mũi tiến công vào địa điểm ấp Hải Sơn để tìm tên lính bị bắt hôm trước. Lần này, bọn địch lọt vào ổ phục kích, ta bắn xối xả vào đội hình địch. Cánh quân thứ hai bị ta đánh bằng một trái ĐH.8, địch chết và bị thương la liệt, số còn lại nhanh chóng rút ra để củng cố lực lượng. Đến 8 giờ, có thêm lực lượng tiếp viện hùng hậu chúng tiến công vào đội hình ta. Do lực lượng không cân sức, (địch đông hơn ta gấp 10 lần) Ban chỉ huy ta ra lệnh rút để bảo tồn lực lượng. Sau trận này, ta để một số bộ phận của Đội công tác di cư bám dân, tiếp tục phát động quần chúng đấu tranh chống địch vi phạm Hiệp định Paris.
Trên trục lộ 15, bất chấp Hiệp định Paris, địch tăng cường lực lượng thường xuyên bung ra càn quét đánh phá cơ sở cách mạng. Tháng 3 năm 1973, lực lượng du kích và đội công tác di cư chỉ hơn một bán đội, do đồng chí Nguyễn Đình Bất ( Thường vụ Huyện ủy) và Nguyễn Văn Soạn (Bí thư xã Phước Hòa) chỉ huy đột nhập ấp Lam Sơn rải truyền đơn và tuyên truyền vận động nhân dân hưởng ứng đấu tranh chống địch không thi hành Hiệp định Paris. Địch phát hiện, lực lượng ta giả bộ rút để dụ địch ra bìa ấp. Ngay vị trí đặt mìn sẵn của ta, trái ĐH.10 đã tiêu diệt và làm bị thương trên 10 tên. Địch tăng cường đại đội bảo an đến truy quét, nhưng lực lượng ta đã rút lui an toàn.
Sau đó không lâu, tên Chín (Phó An ninh ấp Lam Sơn) đã liên hệ và thỏa thuận với cách mạng về địa bàn hoạt động, như du kích và đội công tác di cư được ra vào ấp công tác, còn bọn tự vệ không được bắt bớ đánh đập hoạnh họe nhân dân.
Đến giữa năm 1973, phong trào quần chúng được mở rộng, dân càng tin tưởng vào Đảng và đi theo cách mạng, ủng hộ cách mạng nhiều hơn. Ở Hội Bài, hầu hết số thanh niên trốn lính đều lánh ra vùng ven để sinh sống, số này có trên 10 anh em tham gia lực lượng du lích đường sông, được trang bị vũ khí đầy đủ và thường xuyên tham gia đắp mô, rải truyền đơn, cùng với lực lượng du kích xã, đánh bọn dân vệ các ấp.
Phong trào đấu tranh 3 mũi, quân sự, chính trị và binh vận trên địa bàn các ấp ở xã Phước Hòa phát triển khá mạnh, nhiều hoạt động phối hợp nhịp nhàng giữa du kích đường sông, tự vệ mật và du kích, tạo điều kiện cho lực lượng bộ đội chủ lực huyện và tỉnh, Đoàn 10 bám trụ và đánh địch. Qua công tác binh vận, bọn lính bảo an ngày càng hoang mang dao động, được ta tác động lính ở đồn pháo binh Nguyễn Văn Bé có số bỏ ngũ trốn về nhà làm ăn. Lực lượng thanh niên hăng hái tham gia du kích và bộ đội huyện, tỉnh .
Bà Nguyễn Thị Đố, vừa là cơ sở, gia đình trực tiếp có chồng, con đi kháng chiến nên bà tích cực tham gia và vận động bà con cùng đóng góp ủng hộ cho cách mạng. Bà bị bắt ở tù 18 tháng, khi ra tù lại tiếp tục liên lạc với cách mạng hoạt động binh vận. Ở phía rừng Giồng có các cơ sở ở ấp Ông Trịnh như ông Võ Văn Nhân, là cơ sở tiếp tế nuôi quân cho lực lượng xã và huyện trong suốt những năm đánh Mỹ ác liệt. Năm 1971, ông bị địch bắt ở tù, năm 1972 ra tù lại tiếp tục hoạt động. Mặc dù bị địch bắt tra tấn và ở tù, nhưng nhân dân Tân Thành vẫn một lòng thủy chung với cách mạng. Năm 1970, một đồng chí ở Đoàn 10 hy sinh, ông Nhân đưa xác anh bộ đội về chôn ở đát nhà cẩn thận, bọn lính và tề ấp đe dọa đủ điều, nhưng ông đã bình tĩnh, đấu tranh có lý có tình, khiến chúng không làm gì được.
Phong trào đấu tranh chống địch phá hoại Hiệp định Paris ở xã Phú Mỹ đã diễn ra sôi nổi, có lúc giằng co quyết liệt với địch. Thực hiện chỉ đạo của tỉnh và huyện, Chi bộ xã Phú Mỹ đã triển khai cho các lực lượng, cơ sở mật, đảng viên và du kích mật, qua đó tác động nhân dân ngay từ đêm 26 tháng 1 năm 1973, lực lượng ta đã tổ chức cắm cờ ở các địa điểm trọng tâm như các ấp Mỹ Thạnh, Vạn Hạnh, Mỹ Xuân và Trảng Lớn.
Ngay sáng 28 tháng 1 năm 1973, bọn địch ở yếu khu Phú Mỹ đã cho lực lượng tỏa ra hạ cờ của cách mạng. Được sự chỉ đạo của Huyện ủy, lực lượng cán bộ, du kích lộ và du kích mật Phú Mỹ đã kiên quyết bám trụ ở các cơ sở như Ngọc Hà, Vạn Hạnh và Trảng Lớn. Đẩy mạnh công tác binh vận tác động nhân dân đấu tranh chống địch về việc chúng không thi hành Hiệp định. Tăng cường công tác vũ trang, sẵn sàng diệt địch bung ra lấn chiếm.
Ngày 25 tháng 2 năm 1973, địch điều một trung đội bảo an đột nhập chiếm lại Mỹ Thạnh để hạ cờ mặt trận. Nắm được ý đồ của địch, ta chuẩn bị phương án tác chiến, vận động đồng bào cùng đào hầm trụ kiên cố, phục kích các hướng địch tiến công và hướng tiếp viện, vận động lực lượng quần chúng chuẩn bị đấu tranh. Ngay từ mũi tiến công đầu, đã bị ta sử dụng B.40 tiêu diệt và làm tan rã tiểu đội đi đầu, số còn lại chạy tán loạn về đồn củng cố lực lượng. Địch bung ra càn quét, bắn pháo vào các khu dân cư vùng giải phóng Trảng Lớn. Lực lượng biệt kích ở yếu khu Phú Mỹ càn vào khu căn cứ Hắc Dịch, hễ thấy dân là chúng nã đạn. Chúng đã giết hại 7 người dân và 12 đôi bò ở khu vực Trảng Nai.
Bên trong địch củng cố bọn tề xã, các ấp, chúng cài cắm các tên tay sai ác ôn khét tiếng cùng với bọn cảnh sát lùng sục, bắt bớ các cơ sở mật của ta. Lúc đó, tên Chín Ngón chỉ huy một tiểu đội (đóng ở đồn Cây Điệp) chuyên đi lùng sục ở các ấp Ngọc Hà, Vạn Hạnh, bắt bớ những người dân chúng nghi là cơ sở cách mạng như chị Phụng là cơ sở bị tên Chín Ngón bắt hà hiếp. Sau đó tên Chín Ngón bị ta bắn bị thương. Từ đó các tên tay sai ác ôn khác và bọn tề xã, ấp co lại không dám lùng sục bắt bớ như trước.
Trước tình hình địch đánh phá ta từ trong ra ngoài rất ác liệt, để tăng cường cho các xã trọng điểm và những nơi còn yếu. Huyện ủy chủ trương đưa một số cán bộ nòng cốt ở huyện về tăng cường, trực tiếp lãnh đạo phong trào ở cơ sở. Đồng chí Phạm Thị Xích (còn gọi là Sáu Xích) huyện đội phó về Phú Mỹ phụ trách xã đội trưởng. Đồng chí Hai Bất tiếp tục về chỉ đạo xã Phước Hòa.
Đến cuối năm 1973 đầu 1974, phong trào 3 mũi quân sự, chính trị và binh vận trên địa bàn Tân Thành ngày càng được củng cố khá phát triển. Xã Phước Hòa và Phú Mỹ đã vươn lên thế mạnh cả về tổ chức, lực lượng lộ và mật. Thường xuyên tập kích, vây ép đồn bót địch, đến tấn công tiêu diệt đồn bót và trừng trị các tên tay sai ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân.
Lực lượng du kích xã Phú Mỹ phát triển trên 10 đồng chí du kích xã và một tiểu đội du kích mật nằm trong các ấp như Vạn Hạnh, Ngọc Hà, khu Lò Than và Mỹ Thạnh. Để thể hiện ý chí chiến đấu quyết tâm giành thắng lợi. Xã đội đã đặt tên cho các chiến sỹ du kích xã là “ Quyết – Chiến – Thắng – Lợi”.
.jpg)
Ảnh minh họa.
Tháng 1 năm 1974, địch đưa một trung đội bảo an ở phân chi khu Phú Mỹ đến càn quét ở khu ấp Vạn Hạnh, được nội tuyến cho hay trước, đội du kích xã do đồng chí Sáu Xích trực tiếp chỉ huy đã mưu trí nằm phục sẵn trên các xe bò và xe lôi được phủ đầy rơm để ngụy trang. Một số đồng chí khác cải trang làm nông dân đánh xe, khi đi ngang qua đội hình hành quân của địch, lực lượng ta bất ngờ nổ súng đồng loạt, bị đánh bất ngờ địch không kịp trở tay, ta diệt gọn một tiểu đội, còn hai tiểu đội không dám chống trả, hốt hoảng bỏ chạy về đồn.
Cuối tháng 3 năm 1974, quân khu miền Đông quyết định mở chiến dịch ở Bà Rịa – Long Khánh, thu hồi vùng giải phóng trở lại thế làm chủ trước ngày 27 tháng 1 năm 1973, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch góp phần đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng sâu, vùng tranh chấp, thực hành giành đất, giành dân, mở rộng quyền làm chủ của nhân dân.
Rạng sáng ngày 26 tháng 3 năm 1974, trên hướng trọng điểm chiến dịch Lộ 2 bắt đầu. Đồn Kim Long được chọn làm điểm đột phá. Trong lúc lực lượng chủ lực tiến công đồn Kim Long, du kích các xã đã bao vây, bức rút các bót dân vệ, cùng cán bộ binh vận võ trang tuyên truyền, làm tan rã các đội phòng vệ dân sự. Sau gần hai tháng chiến đấu liên tục, với sự phối hợp tác chiến chặt chẽ của 3 thứ quân, các lực lượng cách mạng huyện Châu Đức đã thu hồi vùng giải phóng từ Kim Long đến sở Bà Cùi, tiêu diệt và bức rút 12 đồn bót, chặt đứng các lực lượng địch giải tỏa, giữ vững vùng giải phóng. Cửa khẩu hậu cần Phước Thái được mở lại. Đồng bào các xã, kể cả vùng địch tạm chiếm phấn khởi đóng góp ngày càng nhiều thóc gạo cho kháng chiến. Được sự quan tâm của chính quyền cách mạng đời sống nhân dân các xã giải phóng nhất là vùng căn cứ Hắc Dịch – Châu Pha từng bước được ổn định. Nhiều nơi bà con tự động dời nhà ra vùng giải phóng làm ăn sinh sống.
Từ thắng lợi của các đợt tập kích tiêu diệt sinh lực địch và tiêu diệt các bọn tay sai ác ôn, đã tác động đến phong trào cách mạng ngày càng phát triển. Phong trào 3 mũi giáp công phối hợp nhịp nhàng thường xuyên đánh địch trên lộ 15, uy hiếp, cảnh cáo bọn tề và ác ôn, bọn bảo an hoang mang co lại trong đồn bót. Từ đó tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy làm chủ sản xuất, mở rộng vùng giải phóng như ấp Trảng Lớn, ta đã vận động một số dân về đây làm ăn sinh sống, sản xuất và đóng thuế ủng hộ cách mạng, xây dựng các lõm chính trị như: Vạn Hạnh, Mỹ Thạnh và Trảng Lớn ngày càng được củng cố và phát triển. Ở đây đã thành lập được Ban trị sự và hình thành các đoàn thể quần chúng cách mạng. Đặc biệt ở Vạn Hạnh đã xây dựng được tổ chống Mỹ trên 10 người như ông Nguyễn Văn Đô (tức Hai Đô), ông Ba Tửu, ông Năm Ngự và tổ tình báo do ông Thi làm tổ trưởng, cung cấp tin tức, tình hình địch cho ta rất chính xác và kịp thời. Tổ chống Mỹ còn xây dựng cơ sở tại chùa Cao Đài trên sườn núi Thị Vải, làm cơ sở hoạt động và liên lạc của cách mạng.
Mạng lưới công tác binh vận ở Phú Mỹ hoạt động sâu rộng và đưa nhiều tin tức kịp thời, như cuối năm 1974 địch cài cắm hai tên Triệu và Thới cảnh sát, chuồn về hoạt động ở xã Phú Mỹ, với ý đồ móc nối với cơ sở cách mạng để đánh phá ta từ bên trong, hai tên này không qua mắt được cơ sở của ta nên đã bị ta tiêu diệt.
Lực lượng du kích Phước Hòa và đội công tác di cư kết hợp thường xuyên dùng thuốc nổ, pháo lép 105 ly đáp sập cống ở khu vực Láng Cát, ngăn cản đường giao thông địch.
Cùng với công tác diệt ác phá kềm, mũi binh vận ở các xã Phước Hòa và Phú Mỹ hoạt động rất tích cực và hiệu quả. Thông qua các gia đình binh sĩ ngụy, ta đã vận động dược hàng chục binh lính ngụy bỏ súng về nhà làm ăn. Trong đó có những anh em giác ngộ tham gia cách mạng. Lực lượng các tổ binh vận và tổ chống Mỹ ở các ấp trên địa bàn huyện thường xuyên tuyên truyền tác động tinh thần binh sĩ ngụy, tuyên truyền chính sách 10 điểm của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, vạch trần tội ác và âm mưu thủ đoạn của địch. Cuối 1974 đầu 1975, bọn lính ngụy ở các đồn bót dọc lộ 15 có nhiều binh sĩ ngụy và bảo an, dân vệ trong các ấp rã ngũ, đã có 12 lính bảo an đem súng ra nộp cho cách mạng, có số về nhà làm ăn, có số giác ngộ tham gia kháng chiến ngày càng nhiều. Ở xã Phú Mỹ, có lúc có cả toán đội dân vệ bỏ ngũ, mang súng ra rừng giao cho cách mạng. Khí thế cách mạng lên cao, quần chúng bung ra sản xuất và càng tin tưởng vào cách mạng ./.
Đào Quốc Thịnh (biên soạn)