banner 728x90

Những giá trị của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam

07/09/2024 Lượt xem: 2832

Về nhận thức đúng những giá trị của tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn, từ đó xác định thái độ của các tín hữu thờ Mẫu, của những người quản lý xã hội và người dân đối với di sản văn hóa tinh thần này. Có thể nêu một số giá trị tiêu biểu: “Mẹ tự nhiên”, một thế giới quan cổ xưa của người Việt.

Trước nhất, tín ngưỡng thờ Mẫu coi thế giới tự nhiên và con người là một thực thể đồng nhất, thống nhất. Vì tín ngưỡng thờ Mẫu, người Mẹ của con người cũng là người “Mẹ tự nhiên”. Nó không chỉ nhân hóa tự nhiên mà còn nữ tính hóa tự nhiên, làm cho việc sùng bái tự nhiên thành sùng bái con người mang nữ tính. Nói cách khác, với tín ngưỡng thờ Mẫu, việc tôn thờ Mẫu không chỉ với tư cách là hiện thân của bản thể tự nhiên (Mẹ Mưa, Mẹ Mây, Mẹ Sấm, Mẹ Chớp - Mẹ Tứ Pháp hay Mẹ Kim, Mẹ Mộc, Mẹ Thủy, Mẹ Hỏa, Mẹ Thổ - Mẹ Ngũ Hành), mà còn là lực lượng cai quản tự nhiên (Mẫu Thiên cai quản vùng trời, Mẫu Địa cai quản vùng đất, Mẫu Thoải cai quản vùng nước sông biển, Mẫu Thượng Ngàn cai quản vùng núi rừng), cũng chính vì vậy mà Mẫu, hiện thân của người Mẹ Tự Nhiên ấy có thể che chở, mang lại những điều tốt lành cho con người.

Cách nhận thức thế giới theo kiểu “nhất thể hóa” này tuy có mặt hạn chế, nhưng cũng có mặt tích cực, giúp cho con người hòa đồng với tự nhiên, cảm nhận tự nhiên, lắng nghe tự nhiên, mà cuối cùng bảo vệ tự nhiên một cách hữu hiệu hơn. Điều này càng trở nên quan trọng khi mà hành tinh chúng ta đang đứng trước thực tế bị tàn phá dẫn đến sự biến đổi khí hậu, đe dọa chính bản thân con người và nền văn minh của con người. “Bà Mẹ tự nhiên” của chúng ta đã và đang bị những đứa con mình phản trắc và Bà đang nổi giận.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ - Nữ thần sáng tạo và bảo vệ dân tộc Việt Nam

Xác lập một nhân sinh quan tín ngưỡng của người Việt hướng về đời sống trần thế, đó là cầu mong sức khỏe, tiền tài, phúc lộc.

Khác với nhiều tôn giáo tín ngưỡng, dù đó là Phật giáo, Kitô giáo… tín ngưỡng thờ Mẫu không hướng con người và niềm tin của con người về thế giới sau khi chết, mà là thế giới hiện tại, thế giới mà con người cần phải có sức khỏe, có tiền tài và quan lộc. Đó là một nhân sinh quan mang tính tích cực, phù hợp với quan niệm “hiện sinh” của con người trong thế giới hiện đại. Lúc này niềm tin vào cái siêu nhiên mà Thánh Mẫu là đại diện trở nên thứ yếu, mang tính phương tiện, còn mục đích sống của con người mới là quan trọng. Đây cũng là cách tư duy thể hiện tính “thực tế”, “thực dụng” của con người Việt Nam.

 Chúng ta cũng khó đo đếm được có bao nhiêu con người Việt Nam tin vào sức mạnh và sự kỳ diệu của Thánh Mẫu. Chỉ biết rằng, không chỉ hàng ngày người ta đến cầu xin Thánh Mẫu, mà còn vào những dịp hội hè, lễ tiết theo chu kỳ “Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ” số lượt người trẩy hội đến các đến phủ tăng gấp bội để cầu mong Mẫu ban cho mình sức khỏe và tài lộc.

Trong nghiên cứu hiện nay, các nhà khoa học đã bắt đầu lý giải được việc những người có căn đồng, tức là những người có những đặc tính tâm sinh lý đặc biệt, lại phải chịu những dồn nén xã hội và tâm lý, nên dễ dẫn đến tình trạng rối loạn về tâm lý và hành vi thì thường sau khi ra trình đồng đều khỏi bệnh, trở về trạng thái tâm sinh lý bình thường. Thậm chí, ngay cả với những người dù không có “căn đồng” mà chỉ để giải tỏa, giải trí trước những sức ép của nhịp sống xã hội đô thị hiện đại (dân gian gọi là đồng đua, đồng đú), thì khi lên đồng cũng giúp họ giải tỏa được những căng thẳng.

Những tín đồ của tín ngưỡng thờ Mẫu, nhất là những người làm nghề kinh doanh buôn bán có một niềm tin mãnh liệt vào Thánh Mẫu, người có thể phù hộ cho họ buôn bán phát đạt. Ở đây, chúng ta khó có thể khẳng định được thực sự có hay không một lực lượng siêu nhiên nào đã hỗ trợ cho họ trong việc kinh doanh buôn bán, có lẽ lúc này, niềm tin của con người giữ vai trò quyết định, nó có thể tạo nên sức mạnh vật chất thực sự.

Tín ngưỡng thờ Mẫu là một thứ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã được tâm linh hóa, tín ngưỡng hóa.

Tín ngưỡng thờ Mẫu, thông qua các ký ức, các truyền thuyết và huyền thoại, qua các nghi lễ và lễ hội đã thể hiện rõ ý thức lịch sử và ý thức xã hội của mình. Trong điện thần của tín ngưỡng thờ Mẫu, hầu hết các vị Thánh đã được lịch sử hóa, tức là đều hóa thân thành những con người có danh tiếng, có công trạng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tất nhiên, trên thực tế có không ít những vị Thánh thần vốn thoát thai từ các nhân vật có thật trong lịch sử, sau này được người đời tô vẽ, thần tượng lên thành các vị thần thánh, tức là các vị thần thánh có “nguyên mẫu” trong lịch sử (Trần Hưng Đạo Đức Thánh Trần, Mẹ Âu Cơ – Mẫu Thượng Ngàn, Lê Khôi hay Nguyễn Xí – ông Hoàng Mười, Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan – Ông Hoàng Bơ, bà Lê Chân, Thánh Mẫu Bát Nàn…). Ngoài ra còn có các vị thần linh, vốn là các thiên thần hay nhiên thần, nhưng lại được người đời “nhân thần hóa” hay “lịch sử hóa”, gán cho họ có sự nghiệp, có công trạng với đất nước hay từng địa phương. Bằng cách đó, tín ngưỡng thờ Mẫu gắn bó với cội nguồn và lịch sử dân tộc, trở thành một biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, một thứ chủ nghĩa yêu nước đã được tín ngưỡng hóa, tâm linh hóa, mà trong đó người Mẹ - Mẫu là nhân vật trung tâm.

Nghệ thuật diễn xướng và hát văn luôn gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu (Ảnh: VOV)

Hướng con người đến thái độ sống hòa hợp, hòa nhập, khiến cho tín ngưỡng thờ Mẫu trở thành biểu tượng đa văn hóa tộc người.

Tín ngưỡng thờ Mẫu vốn là tín ngưỡng bản địa của dân tộc Việt, nhưng nó thể hiện một khả năng tích hợp tôn giáo tín ngưỡng cao. Đây là một tín ngưỡng bản địa có từ lâu đời, nhưng trong quá trình hình thành và phát triển, tín ngưỡng thờ Mẫu đã tiếp thu, tích hợp và bản địa hóa nhiều ảnh hưởng của Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo. Mặt khác nó còn tích hợp văn hóa của nhiều dân tộc thiểu số như người Dao, Tày, Nùng, Chăm, Khơme.  Trong hệ thống các thần linh có nhiều vị thần người dân tộc thiểu số, như các vị Thánh hàng Chầu (chúa), Thánh Cô, do vậy nó cũng tích hợp các sinh hoạt văn hóa của các dân tộc thiểu số đó vào trong nghi lễ của tín ngưỡng này (ăn mặc, âm nhạc, múa hát…). Điều này thể hiện tính dân chủ, bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc, tính cởi mở dễ hòa nhập của tín ngưỡng thờ Mẫu.

Lên đồng là một nghi lễ quan trọng bậc nhất của tín ngưỡng thờ Mẫu, là một hình thức diễn xướng tâm linh, một “bảo tàng sống” của văn hóa dân tộc Việt.

Tín ngưỡng thờ Mẫu và các hình thức Shaman giáo đều ẩn chứa những giá trị văn hoá nghệ thuật rất phong phú. Đó là kho tàng truyền thuyết, thần tích, huyền thoại về các thần linh, đó còn là các hình thức diễn xướng với âm nhạc, ca hát, vũ điệu, trang phục, hình thức trang trí, kiến trúc... Nhiều người đã nói tới Diễn xướng tín ngưỡng thờ Mẫu như là một hình thức sân khấu tâm linh hay một văn hoá tín ngưỡng thờ Mẫu. Ở hình thức diễn xướng này chúng ta có thể thấy được lỗi nghĩ, nếp sống, các quan niệm nhân sinh, thấy được nếp ăn (ẩm thực), cách mặc, cách sinh hoạt, nghi lễ của cha ông xưa; được chiêm ngưỡng sự hiện thân của các thần linh vốn là các nhân vật lịch sử hay thần linh đã được “lịch sử hóa” với công trạng, tính cách, điệu bộ rất sinh động. Quả thực đó là một bộ sưu tập lịch sử và văn hóa vô cùng phong phú và sinh động, một “bảo tàng sống” văn hóa Việt Nam như một học giả nước ngoài nhận định.

Chỉ riêng nghi lễ Hầu bóng - Lên đồng của tín ngưỡng thờ Mẫu đã sản sinh ra loại hình âm nhạc - hát văn, mà theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, đó là một trong hai loại hình dân ca tiêu biểu của người Việt đóng góp vào kho tàng âm nhạc thế giới. Chúng tôi tự nhận thấy và hy vọng rằng loại hình diễn xướng Lên đồng này sớm muộn sẽ được UNESCO tôn vinh là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Chính những giá trị nhận thức, giá trị lịch sử, truyền thống, xã hội, văn hóa kể trên đã luôn đặt tín ngưỡng thờ Mẫu vào vị trí những tôn giáo, tín ngưỡng bản địa hàng đầu của dân tộc Việt Nam.

Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam

 

 

 

 

 

Tags:

Bài viết khác

Những loại hoa, quả nên thắp ngày Tết Đoan Ngọ

Chọn đúng hoa, chọn kỹ quả vào ngày Tết Đoan Ngọ không chỉ để dâng lên tổ tiên mà còn thể hiện sự hiểu biết, giữ gìn nếp nhà và bản sắc truyền thống giữa nhịp sống hiện đại.

Đền thờ Mẫu - Chốn linh thiêng ở kỳ quan Đèo Ngang

Nằm trên hành trình thiên lý Bắc – Nam, Đền thờ Mẫu Liễu Hạnh đã trở thành điểm đến tâm linh đầy huyền bí. Qua bao cuộc biến thiên, tích xưa “Công chúa Quỳnh Hoa giáng trần giúp dân bản tránh khỏi nạn dịch, xua đuổi thú dữ, dạy người trồng lúa…” vẫn trường tồn ở vùng đất sơn thủy hữu tình này.

Cúng, khấn, vái và lạy trong nghi lễ thờ cúng

Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương: Bản sắc văn hóa của người Việt Nam

Việc thờ cúng Hùng Vương đã ăn sâu, lan tỏa rộng khắp, nơi đâu có người Việt sinh sống thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên - thờ các vua Hùng được người Việt tôn vinh và thờ tự.

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).
Top