banner 728x90

Lễ cúng Thần Thổ địa của người Kháng

06/07/2024 Lượt xem: 2550

Hàng năm, cứ vào ngày 3 tháng 3 và ngày 6 tháng 6 âm lịch, cộng đồng dân tộc Kháng lại nô nức tổ chức nghi lễ cúng Thần Thổ địa, cầu mong những điều tốt đẹp cho dân bản.

Nghi lễ cúng Thần Thổ địa tiếng dân tộc Kháng có tên là “Mừ té mà ngặt tia”. Theo quan niệm của đồng bào, trong năm, nhất định phải tổ chức nghi lễ trên hai lần, nếu vì lý do nào đó không thực hiện được thì năm đó, cuộc sống dân làng sẽ khó khăn, mùa màng thất bát, con người đau ốm, lợn, gà khó nuôi…

Chuẩn bị lễ cúng Thần Thổ địa: Theo các vị trưởng bản, nghi lễ cúng Thần Thổ địa có từ rất lâu đời, khi cộng đồng dân tộc Kháng về đây sinh sống. Việc tổ chức nghi lễ này, trước là để người dân bày tỏ lòng tưởng nhớ, ghi ơn vị Thần Thổ địa đã dẫn dắt dân tộc Kháng khai hoang, lập bản, sau là dịp để họ gửi gắm đến thần lời cầu nguyện, ước mong được che chở, bảo vệ khỏi những điều không may mắn.

Mâm cỗ cúng Thần Thổ địa: Để có một nghi lễ cúng trang trọng, đồng bào Kháng phải chuẩn bị từ vài hôm trước. Thông qua một buổi họp bàn, trưỏng bản sẽ phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong thôn, bản. Mỗi người giữ một nhiệm vụ như: trang trí lại nhà cúng thần, chuẩn bị các đồ thờ cúng, mổ lợn, mổ gà, giúp thầy cúng khi làm lễ… Ai nấy phấn khởi, lo làm tốt công việc của mình với mong muốn thần sẽ vui và phù hộ cho mình, phù hộ cho buôn làng.

Điều đặc biệt là trong nghi lễ là chỉ có nam giới mới tham dự. Mỗi gia đình sẽ có một đại diện tham gia, mỗi người mang theo một ít đồ ăn bằng xôi màu và một ít rượu.

Bắt đầu tiến hành nghi lễ cúng Thổ địa: Không gian tiến hành nghi lễ cúng Thần Thổ địa là ngoài cánh đồng. Địa điểm tổ chức mỗi năm có thể khác nhưng đều phải đáp ứng các yêu cầu như: gần nguồn nước, có cây, đặc biệt là cây tre để lấy nguyên liệu phục vụ lễ. Vật cúng thần là một con lợn và một con gà. Trong các đồ cúng chuẩn bị cho nghi lễ, quan trọng nhất là mâm cho các thần. Thông thường, có các mâm cúng thần của bốn phương và Thần Thổ địa, trong đó mâm của Thần Thổ địa là to hơn cả.

Tín hiệu cấm người lạ xâm phạm khu vực hành lễ: Khi nghi lễ kết thúc cũng là lúc tiệc rượu của những người tham gia nghi lễ bắt đầu. Người Kháng quan niệm, việc thưởng thức những thức ăn đã qua cúng lễ và ăn ngay tại nơi hành lễ là một điều may mắn, đem lại cho gia đình và cộng đồng những điều tốt đẹp, vì đó là những vật phẩm đã được thần linh về chứng giám. Ngoài việc thưởng thức tại nơi hành lễ, mỗi thành viên trong cộng đồng sẽ được chia một chút lộc về gia đình lấy may.

Sau khi thực hiện nghi lễ cúng Thần Thổ địa, người dân tộc Kháng an tâm bắt tay vào công việc trồng, cấy… Nghi lễ cúng Thần Thổ địa của dân tộc Kháng mang giá trị nhân văn to lớn, thể hiện tinh thần cộng cảm, cộng mệnh và cố kết cao giữa các thành viên trong cộng đồng.

Ban Nghiên cứu Tôn giáo

 

 

Tags:

Bài viết khác

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Việt Nam

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều mang trong mình những nét văn hóa riêng. Văn hóa là cái gốc cho sự phát triển, phồn thịnh của một đất nước. Việt Nam là một dân tộc mang một nền văn hóa đậm đà bản sắc, đa dạng và phong phú. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam từ lâu đã đóng vai trò quan trọng đối với người dân Việt, văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tâm thức người dân.

Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội cổ truyền ở Việt Nam

Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong các lễ hội cổ truyền của Việt Nam, thể hiện bản sắc văn hóa, tâm linh và lòng tôn kính đối với các thế lực siêu nhiên, Tổ tiên, thần thánh. Bài viết tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật về tín ngưỡng dân gian trong các lễ hội cổ truyền của người Việt, đặc biệt, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu...

Ý nghĩa và mục đích của tục “Bán khoán con lên chùa”

Bán khoán con cho chùa là một tín ngưỡng dân gian, một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh. Có hai hình thức bán khoán con lên chùa: Bán khoán đến hết năm 12 tuổi rồi “chuộc” con ra, hoặc là bán khoán trọn đời. Từ xưa đến nay, nhiều gia đình quan niệm, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, khóc lóc không phải là do bị bệnh từ thân hoặc những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch).
Top