Với người Việt, đất Việt - quốc gia có truyền thống sống bằng nghề nông nghiệp lúa nước - nền văn hóa thiên về âm tính. Đặc trưng âm tính này chính là xuất phát điểm của lối sống xã hội thiên về tình cảm, trọng phụ nữ và trong lĩnh vực tín ngưỡng là thờ nhiều nữ thần.
Nữ thần gắn với biểu tượng các bà Mẹ, các Mẫu: Đích đến của tín ngưỡng sùng bái tự nhiên của ông bà ta chính là hướng tới sự phồn thực, sinh sôi, nảy nở, cho nên nữ thần của dân tộc ta không phải là các cô gái trẻ đẹp mà là các bà Mẹ, các Mẫu.
Trước hết, đó là các Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước - ba nữ thần cai quản ba hiện tượng tự nhiên quan trọng nhất, thiết thân nhất đối với cuộc sống của người làm nông nghiệp lúa nước.
Trong cuốn Tìm về Bản sắc văn hóa Việt Nam, GS-TS viện sĩ Trần Ngọc Thêm nhận định, ban đầu, hoàn toàn là Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước. Về sau một phần do ý thức được sự đối lập âm dương mà xuất hiện Ông Trời, rồi lại do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa gốc du mục nên có thêm các khái niệm Ngọc Hoàng, Thổ Công, Hà Bá. Tuy nhiên, các Bà vẫn song song tồn tại. Bà Trời dưới dạng Mẫu Cửu Trùng hay Cửu Thiên Huyền Nữ. Ở Huế là Thiên Mụ, Thiên Yana. Nhiều nhà ở góc sân vẫn có một bàn thờ Bà Thiên (hay Bà Thiên Đài). Bà Đất tồn tại dưới tên Mẹ Đất (Địa Mẫu). Bà Nước tồn tại dưới tên Bà Thủy. Ở nhiều vùng, Bà Đất, Bà Nước còn tồn tại dưới dạng nữ thần khu vực như: Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Lạch, Bà Chúa Sông.
Thờ Mẹ Âu Cơ và truyền thuyết đẻ bọc trăm trứng
Trong dân gian, ba nữ thần này còn được thờ chung như một bộ tam tài dưới dạng tín ngưỡng Tam phủ với ba bà cai quản ba vùng trời - đất - nước: Mẫu Thượng Thiên (Bà Trời), Mẫu Thượng Ngàn (Bà Đất), Mẫu Thoải (âm đọc chệch đi từ chữ Thủy, Bà Nước).
Tục thờ mặt trời cũng là một tín ngưỡng đặc biệt phổ biến ở vùng nông nghiệp Đông Nam Á. Không trống đồng, thạp đồng nào là không khắc hình mặt trời ở tâm. Ông bà ta xưa kia hầu hết đều thờ Trời, nhiều vùng nhà nào cũng có bàn thờ Thiên, hay Bà Thiên ở góc sân.
Tiếp theo Trời - Đất - Nước là các Bà Mây - Mưa - Sấm - Chớp - những hiện tượng tự nhiên có vai trò hết sức to lớn trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp lúa nước. khi Phật giáo vào Việt Nam, nhóm nữ thần Mây - Mưa - Sấm - Chớp này được khoác thêm bộ áo Phật giáo với các truyền thuyết Man Nương Phật Mẫu, được nhào nặn thành hệ thống Tứ Pháp: Pháp Vân (thần Mây), Pháp Vũ (Thần Mưa), Pháp Lôi (Thần Sấm), Pháp Điện (Thần Chớp). Lòng tin của nhân dân vào hệ thống Tứ Pháp mạnh đến nỗi vào thời Lý, nhiều lần triều đình đã phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long cầu đảo, thậm chí rước theo đoàn quân đi đánh giặc…
Người Việt còn thờ không gian và thời gian. Thần không gian được hình dung theo ngũ hành, vì ngũ hành liên quan đến phương vị rất rõ: Ngũ hành Nương Nương, Ngũ Phương chi thần coi sóc trung ương và 4 hướng; Ngũ Đạo chi thần trông coi các ngả đường. Thần thời gian được hình dung theo địa chi, vì địa chi được dùng như một hệ đo thời gian (12 giờ/ngày, 12 tháng/năm). Thần đó gọi là Thập Nhị Hành Khiển (12 vị thần, mỗi vị thần coi sóc một năm). Thời gian kéo dài, bảo tồn sự sống vô tận nên 12 nữ thần này đồng thời có trách nhiệm coi sóc việc sinh nở - đó là Mười Hai Bà Mụ.
Tục thờ cúng nữ thần gắn liền với người Việt ở Nam bộ ngay từ buổi đầu mở đất, cách đây hơn 3 thế kỷ, từ đó đồng hành cùng quá trình phát triển của xã hội và hiện nay đã trở thành hình thức tín ngưỡng sinh động, khá phổ biến. Nét độc đáo trong tục thờ nữ thần ở Nam bộ nói chung và Đồng Nai nói riêng là tục thờ các nữ thần gắn liền với những lưu dân Việt, Hoa trong quá trình đến mở đất, khai khẩn và cả sự tích hợp trong quá trình cộng cư.
Theo đó, có nhiều vị nữ thần được thờ có gốc tích từ quê gốc của nguồn di dân Việt (từ Bắc bộ và Trung bộ) như: Quốc Mẫu Âu Cơ, Ngũ Hành Nương Nương… Ngoài ra còn có tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu được người Hoa du nhập vào Nam bộ. Bên cạnh đó còn có các nữ thần bản địa mang nguồn gốc tín ngưỡng của dân tộc thiểu số Chăm, Mạ, Chơro, S’tiêng… trở thành một nét đẹp văn hóa, luôn thường trực, có sức sống bền vững trong tâm linh của người dân đất Việt.
Rõ ràng, tín ngưỡng thờ cúng Nữ thần đã hình thành, phát triển từ lâu và ăn sâu, bám rễ vào tâm thức qua bao thế hệ, có sức sống bền vững, đáp ứng đầy đủ nhu cầu tâm linh của cộng đồng, nó hỗn dung nhiều yếu tố mới lạ mà không xa rời và mất đi tính truyền thống, tính cội nguồn. Đây là biểu tượng đẹp mang ý nghĩa xã hội và ý nghĩa nhân văn sâu sắc, gắn liền với một số truyền thống văn hóa tích cực, đó là những mỹ tục đáng trân trọng và gìn giữ. Những giá trị đích thực của tín ngưỡng thờ cúng Nữ thần cần được gạn lọc, định hướng và phát triển hợp lý đồng thời cần hạn chế những hủ tục lạc hậu để ngày càng tôn vinh hơn tín ngưỡng quý giá này.
Ban Nghiên cứu văn hóa