banner 728x90

Giá trị đích thực của tín ngưỡng thờ cúng Nữ thần

29/05/2024 Lượt xem: 2960

Với người Việt, đất Việt - quốc gia có truyền thống sống bằng nghề nông nghiệp lúa nước - nền văn hóa thiên về âm tính. Đặc trưng âm tính này chính là xuất phát điểm của lối sống xã hội thiên về tình cảm, trọng phụ nữ và trong lĩnh vực tín ngưỡng là thờ nhiều nữ thần.

Nữ thần gắn với biểu tượng các bà Mẹ, các Mẫu: Đích đến của tín ngưỡng sùng bái tự nhiên của ông bà ta chính là hướng tới sự phồn thực, sinh sôi, nảy nở, cho nên nữ thần của dân tộc ta không phải là các cô gái trẻ đẹp mà là các bà Mẹ, các Mẫu.

Trước hết, đó là các Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước - ba nữ thần cai quản ba hiện tượng tự nhiên quan trọng nhất, thiết thân nhất đối với cuộc sống của người làm nông nghiệp lúa nước.

Trong cuốn Tìm về Bản sắc văn hóa Việt Nam, GS-TS viện sĩ Trần Ngọc Thêm nhận định, ban đầu, hoàn toàn là Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước. Về sau một phần do ý thức được sự đối lập âm dương mà xuất hiện Ông Trời, rồi lại do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa gốc du mục nên có thêm các khái niệm Ngọc Hoàng, Thổ Công, Hà Bá. Tuy nhiên, các Bà vẫn song song tồn tại. Bà Trời dưới dạng Mẫu Cửu Trùng hay Cửu Thiên Huyền Nữ. Ở Huế là Thiên Mụ, Thiên Yana. Nhiều nhà ở góc sân vẫn có một bàn thờ Bà Thiên (hay Bà Thiên Đài). Bà Đất tồn tại dưới tên Mẹ Đất (Địa Mẫu). Bà Nước tồn tại dưới tên Bà Thủy. Ở nhiều vùng, Bà Đất, Bà Nước còn tồn tại dưới dạng nữ thần khu vực như: Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Lạch, Bà Chúa Sông.

Thờ Mẹ Âu Cơ và truyền thuyết đẻ bọc trăm trứng

Trong dân gian, ba nữ thần này còn được thờ chung như một bộ tam tài dưới dạng tín ngưỡng Tam phủ với ba bà cai quản ba vùng trời - đất - nước: Mẫu Thượng Thiên (Bà Trời), Mẫu Thượng Ngàn (Bà Đất), Mẫu Thoải (âm đọc chệch đi từ chữ Thủy, Bà Nước).

Tục thờ mặt trời cũng là một tín ngưỡng đặc biệt phổ biến ở vùng nông nghiệp Đông Nam Á. Không trống đồng, thạp đồng nào là không khắc hình mặt trời ở tâm. Ông bà ta xưa kia hầu hết đều thờ Trời, nhiều vùng nhà nào cũng có bàn thờ Thiên, hay Bà Thiên ở góc sân.

Tiếp theo Trời - Đất - Nước là các Bà Mây - Mưa - Sấm - Chớp - những hiện tượng tự nhiên có vai trò hết sức to lớn trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp lúa nước. khi Phật giáo vào Việt Nam, nhóm nữ thần Mây - Mưa - Sấm - Chớp này được khoác thêm bộ áo Phật giáo với các truyền thuyết Man Nương Phật Mẫu, được nhào nặn thành hệ thống Tứ Pháp: Pháp Vân (thần Mây), Pháp Vũ (Thần Mưa), Pháp Lôi (Thần Sấm), Pháp Điện (Thần Chớp). Lòng tin của nhân dân vào hệ thống Tứ Pháp mạnh đến nỗi vào thời Lý, nhiều lần triều đình đã phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long cầu đảo, thậm chí rước theo đoàn quân đi đánh giặc…

Người Việt còn thờ không gian và thời gian. Thần không gian được hình dung theo ngũ hành, vì ngũ hành liên quan đến phương vị rất rõ: Ngũ hành Nương Nương, Ngũ Phương chi thần coi sóc trung ương và 4 hướng; Ngũ Đạo chi thần trông coi các ngả đường. Thần thời gian được hình dung theo địa chi, vì địa chi được dùng như một hệ đo thời gian (12 giờ/ngày, 12 tháng/năm). Thần đó gọi là Thập Nhị Hành Khiển (12 vị thần, mỗi vị thần coi sóc một năm). Thời gian kéo dài, bảo tồn sự sống vô tận nên 12 nữ thần này đồng thời có trách nhiệm coi sóc việc sinh nở - đó là Mười Hai Bà Mụ.

Tục thờ cúng nữ thần gắn liền với người Việt ở Nam bộ ngay từ buổi đầu mở đất, cách đây hơn 3 thế kỷ, từ đó đồng hành cùng quá trình phát triển của xã hội và hiện nay đã trở thành hình thức tín ngưỡng sinh động, khá phổ biến. Nét độc đáo trong tục thờ nữ thần ở Nam bộ nói chung và Đồng Nai nói riêng là tục thờ các nữ thần gắn liền với những lưu dân Việt, Hoa trong quá trình đến mở đất, khai khẩn và cả sự tích hợp trong quá trình cộng cư.

Theo đó, có nhiều vị nữ thần được thờ có gốc tích từ quê gốc của nguồn di dân Việt (từ Bắc bộ và Trung bộ) như: Quốc Mẫu Âu Cơ, Ngũ Hành Nương Nương… Ngoài ra còn có tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu được người Hoa du nhập vào Nam bộ. Bên cạnh đó còn có các nữ thần bản địa mang nguồn gốc tín ngưỡng của dân tộc thiểu số Chăm, Mạ, Chơro, S’tiêng… trở thành một nét đẹp văn hóa, luôn thường trực, có sức sống bền vững trong tâm linh của người dân đất Việt.

Rõ ràng, tín ngưỡng thờ cúng Nữ thần đã hình thành, phát triển từ lâu và ăn sâu, bám rễ vào tâm thức qua bao thế hệ, có sức sống bền vững, đáp ứng đầy đủ nhu cầu tâm linh của cộng đồng, nó hỗn dung nhiều yếu tố mới lạ mà không xa rời và mất đi tính truyền thống, tính cội nguồn. Đây là biểu tượng đẹp mang ý nghĩa xã hội và ý nghĩa nhân văn sâu sắc, gắn liền với một số truyền thống văn hóa tích cực, đó là những mỹ tục đáng trân trọng và gìn giữ. Những giá trị đích thực của tín ngưỡng thờ cúng Nữ thần cần được gạn lọc, định hướng và phát triển hợp lý đồng thời cần hạn chế những hủ tục lạc hậu để ngày càng tôn vinh hơn tín ngưỡng quý giá này.

Ban Nghiên cứu văn hóa

 

Tags:

Bài viết khác

Các nghi lễ trong thờ cúng tổ tiên của người Việt

Thờ cúng tổ tiên là một trong những phong tục truyền thống quan trọng trong văn hóa dân tộc Việt Nam. Đây là một cách thể hiện lòng hiếu thảo, tôn kính và nhớ về cội nguồn của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Các nghi thức, nghi lễ trong thờ cúng tổ tiên thường được thực hiện trong các dịp đặc biệt như Tết Nguyên Đán, ngày giỗ tổ, lễ cúng ông Công ông Táo, và nhiều dịp quan trọng khác. Dưới đây là một số nghi thức và nghi lễ phổ biến trong thờ cúng tổ tiên:

Văn hóa cúng tiền chủ trong tín ngưỡng dân gian

Trong tín ngưỡng dân gian, cúng tiền chủ là một phong tục phổ biến tại nhiều gia đình, đặc biệt vào các ngày Rằm, Mồng Một, Giỗ Tết hoặc khi có điều gì không ổn trong nhà. Người ta tin rằng tiền chủ là người đã sống và qua đời trước tiên trong ngôi nhà này, và dù thời gian trôi qua, ngôi nhà có thể chuyển từ tay gia chủ này sang gia chủ khác, nhưng tiền chủ vẫn luôn dõi theo và thỉnh thoảng quay về thăm ngôi nhà cũ.

Những nguyên tắc khi bốc bát hương thờ cúng: Quy tắc và ý nghĩa tâm linh

Trong tín ngưỡng thờ cúng của người Việt, bát hương (lư hương) đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nó không chỉ là một vật phẩm trang trí trên bàn thờ mà còn là nơi để giao tiếp giữa thế giới trần gian và thế giới tâm linh. Tuy nhiên, việc lập bát hương không phải là điều đơn giản, và có những nguyên tắc cần tuân thủ để việc thờ cúng được linh ứng.

Đình làng - thiết chế văn hóa tín ngưỡng

Đình làng có vị trí, vai trò quan trọng trong xã hội Việt Nam thời phong kiến, nhất là vùng đồng bằng Bắc bộ. Đình làng được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ra đời vào thời Lê –Mạc, là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng, một biểu tượng của tính cộng đồng, trung tâm văn hóa, hành chính của làng xã truyền thống.

Nhà Lớn Long Sơn và Lễ hội Trùng Cửu: Dấu ấn tín ngưỡng bản địa Nam Bộ

Mỗi năm, vào các ngày 7, 8 và 9 tháng 9 âm lịch, người dân đảo Long Sơn (TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũ, nay là xã Long Sơn, Tp. Hồ Chí Minh) lại nô nức hướng về Nhà lớn Long Sơn để tham dự Lễ hội Trùng Cửu – một trong những lễ hội truyền thống lớn và giàu ý nghĩa nhân văn bậc nhất của vùng đất biển này.

Tín ngưỡng Giàng Knée – Sợi dây thiêng liêng kết nối cộng đồng người Pa Cô

Đối với người Pa Cô nói riêng và đồng bào các dân tộc thiểu số miền Tây Quảng Trị nói chung, thế giới luôn tồn tại song song hai chiều không gian: trần thế và linh giới. Trong đó, vạn vật – từ con người đến cây cỏ, muông thú – đều có linh hồn và chịu sự chi phối của các thế lực siêu nhiên. Quan niệm này hình thành nên tín ngưỡng vạn vật hữu linh, gắn bó sâu sắc với đời sống văn hóa – tinh thần của cộng đồng.

Quan niệm về Thiên đường và Địa ngục trong tín ngưỡng dân gian của người Tày, Nùng

Trong hệ thống tín ngưỡng dân gian của người Tày và Nùng, tồn tại một vũ trụ quan phân tầng, nơi các lực lượng siêu nhiên được chia thành nhiều loại, cư ngụ tại các không gian khác nhau và có mối quan hệ tác động qua lại với con người. Một trong những biểu hiện đặc trưng là niềm tin vào các loại "phi" (ma, linh hồn), cũng như quan niệm về Thiên đường và Địa ngục (âm phủ).

Những loại hoa, quả nên thắp ngày Tết Đoan Ngọ

Chọn đúng hoa, chọn kỹ quả vào ngày Tết Đoan Ngọ không chỉ để dâng lên tổ tiên mà còn thể hiện sự hiểu biết, giữ gìn nếp nhà và bản sắc truyền thống giữa nhịp sống hiện đại.
Top