banner 728x90

Ghe Ngo - tài sản văn hóa cộng đồng quý giá của người Khmer Nam Bộ

03/06/2024 Lượt xem: 2425

 

Lễ hội đua ghe ngo của cộng đồng người Khmer

Ghe Ngo cùng với dàn nhạc ngũ âm là tài sản văn hóa sinh hoạt cộng đồng, tôn giáo quý giá và độc đáo của đồng bào dân tộc Khmer miền Tây Nam Bộ. Không có chiếc ghe nào có chiều dài, trọng lượng, trang trí hoa văn tinh xảo, có giá trị lớn và được nhiều người chèo như chiếc ghe Ngo.

Đối với đồng bào dân tộc Khmer, ghe Ngo là một sản phẩm văn hóa, tinh thần có giá trị lớn nên luôn luôn được bảo quản và cất giữ ở chùa. Tại khuôn viên chùa, người ta xây một trại kiên cố có mái che, vách chống mưa, nắng rồi cho ghe Ngo vào bên trong, được kê cao cẩn thận.

Ghe Ngo - phương tiện sử dụng trong lễ hội đua ghe ngo

Ghe Ngo được đóng hoàn toàn từ gỗ cây sao vì gỗ này có tính đàn hồi lớn, giúp chiếc ghe Ngo bơi nhanh khi di chuyển. Trung bình mỗi chiếc ghe Ngo dài từ 28 đến 30 m, vì vậy người ta dùng 5 miếng gỗ sao dài 15m ghép lại làm thân ghe, 2 đầu ghe làm bằng gỗ sao nguyên khối, mỗi khối dài 7,5 m được đẽo cho nhọn và cong. Phía bên trong thân ghe, các mảnh gỗ này nối với các thanh gỗ cong bằng đinh, vừa tạo hình thân vừa làm chỗ ngồi cho 50 vận động viên bơi ghe. Phía bên ngoài sẽ trải qua 2 giai đoạn để làm thân ghe liền khít và không thấm nước. Giai đoạn “xẩm bố”, các mối nối giữa các mảnh gỗ sẽ được người thợ dùng dây bố khít vào các khe hở rồi dùng búa đóng chặt chúng vào trong, người thợ ở cộng đoạn “trét chay” sẽ dùng bột chay (một loại bột khô, mịn) trộn với dầu rồi trét khít vào các khe hở. Hoàn thành xong 2 giai đoạn này, thân ghe sẽ liền khít và hoàn toàn không thấm nước. Giai đoạn tỉ mỉ và tốn công nhất là trang trí bên ngoài thân ghe ngo. Toàn thân ghe ngo được vẽ hoa văn với các màu đặc trưng gồm đỏ, xanh, vàng, cam, đen, trong đó hoa văn ở đầu và đuôi ghe là được gọi là “đọt hoa văn” với những hình trang trí hoa, lá cách điệu nhỏ, nhọn, phần trang trí ở thân ghe ngo được gọi là “lá hoa văn” với những hình hoa, lá to, tròn. Sau khi làm xong ghe, người thợ bắt đầu làm “đòn dong” hay còn gọi là “cần câu” gồm 2 cây tràm lớn nhiều năm tuổi, mỗi cây dài 10 m, được chọn từ những cây tràm to, tròn và cong, một cây nằm từ giữa thân ghe ra đầu ghe, cây kia nằm ở hướng ngược lại, 2 cây “cần câu” này có tác dụng giữ nhịp và tạo độ nhún cho ghe Ngo.

Theo truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer, đua ghe Ngo được tổ chức vào lễ Ok Om Bok (lễ cúng trăng), đua ghe nhằm mục đích cầu mưa thuận gió hòa, đủ nước để mùa màng được tươi tốt. Hiện nay, đua ghe Ngo cũng được tổ chức thành giải thể thao cấp quốc gia, khu vực quy tụ nhiều đội ghe Ngo ở các tỉnh, thành tham dự.

Mỗi ghe Ngo có một đôi đua nam hoặc nữ gồm 85 người, trong đó có 50 người bơi chính thức. Đội đua này tập hợp những người dân Khmer khỏe mạnh, yêu thích bơi ghe Ngo và được huấn luyện bởi một người nhiều kinh nghiệm. Trước mỗi đợt đua, đội ghe Ngo được tập hợp và tập trước trên giàn ở cạnh bờ sông, sau đó tập chính thức với ghe. Vào trận đua, 48 vận động viên cầm mái chèo ngồi thành 2 hàng song song, người thuận tay trái ngồi ở bên trái, người thuận tay phải ngồi bên phải, một người có uy tín trong cộng đồng sẽ ngồi ở phía đầu ghe làm nhiệm vụ chỉ huy, điều chỉnh hướng, người huấn luyện viên ngồi ở đuôi ghe thổi còi để các vận động viên chèo theo nhịp.

Để ghe Ngo di chuyển nhanh và đúng hướng cần có sự phối hợp khéo léo của 50 người ngồi trong ghe, trong đó các vận động viên vừa giữ đúng nhịp theo còi của huấn luyện viên, vừa đúng hướng và đúng tốc độ theo sự điều khiển của người chỉ huy.

Tham gia đua ghe Ngo là một niềm vui và vinh dự lớn của người dân trong các phum, sóc, vì vậy ngoài đội đua hơn 80 người thì nhiều người dân trong vùng cũng đi theo đội ghe Ngo để thưởng thức các trận đấu và cổ vũ đội nhà.

Vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện có 15 ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer nằm ở các vùng có đông đồng bào dân tộc Khơ me, trong đó có 5 chiếc ghe Ngo được bảo quản ở các chùa tại huyện Long Mỹ, thành phố Vị Thanh, Tỉnh Hậu Giang. Đây là những tài sản có giá trị văn hóa, tinh thần quý giá đối với đồng bào dân tộc Khmer cũng như của vùng đồng bằng Sông Cửu Long./.

Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam

Tags:

Bài viết khác

Phong tục cúng giỗ đầu trong văn hóa của người Việt

Giỗ đầu còn gọi là Lễ tiểu tường, là ngày giỗ đầu tiên, tổ chức sau ngày người mất đúng một năm. Đây cũng chính là một nét văn hóa đặc trưng của người Việt từ xa xưa cho đến hiện nay.

Sự khác biệt trong phong tục thờ cúng giữa người Hoa với người Việt

Dù chịu ảnh hưởng bởi lối sống của người Việt nhưng người Hoa vẫn giữ được những phong tục riêng, đặc biệt là phong tục thờ cúng. Chính việc giữ gìn phong tục này đã tạo nên sự khác biệt độc đáo giữa người Việt và người Hoa, góp phần làm đa dạng bản sắc văn hóa của các dân tộc.

Hình tượng chim hạc trong đời sống tâm linh người Việt

Chim Hạc với hình ảnh nhẹ nhàng, tinh tế uyển chuyển là biểu trưng cho điềm lành, thanh cao thoát tục, trường thọ và hạnh phúc. Người dân dùng hình tượng Hạc để biểu thị mong ước ấm êm, gia đình vui vẻ.

Vai trò của bản hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Bản hội chính là một loại hình cộng đồng tôn giáo, tín ngưỡng. Cộng đồng này được cố kết với nhau bởi có cùng niềm tin vào sự độ trì của các vị thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu và có chung một đồng thầy với những năng lực đặc biệt. Những phân tích lý thuyết về mối quan hệ giữa cộng đồng và di sản văn hóa đã chỉ ra vai trò chủ thể sáng tạo, thực hành, bảo vệ và trao truyền di sản của cộng đồng. Không có cộng đồng ắt sẽ không có di sản.

Tứ Phủ Thánh Cô trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Tứ Phủ Thánh Cô gồm Thập Nhị Thánh Cô (Mười hai cô). Trong Đạo Mẫu, Tứ Phủ Thánh Cô đứng sau Ngũ Vị Tôn Ông, Tứ Phủ Chầu bà, Tứ Phủ Quan Hoàng, đứng trên Tứ Phủ Thánh Cậu.

Tục thờ cúng bà Mụ trong tín ngưỡng người Việt

Lễ cúng Mụ thịnh hành trong một số dân tộc châu Á trong đó có dân tộc Việt, và thường được tổ chức vào những thời điểm khi đứa trẻ mới sinh được 3 ngày (ngày đầy cữ), 1 tháng (ngày đầy tháng) và 1 năm (ngày thôi nôi).

Hành lễ trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Cũng như các tôn giáo, tín ngưỡng khác, tín ngưỡng thờ Mẫu cũng có những nguyên tắc nhất định trong việc hành lễ. Hành lễ trong tín ngưỡng thờ Mẫu là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện.

Tứ Phủ Thánh Cậu trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Tứ Phủ Thánh Cậu gồm có 12 Thánh Cậu, là các hình tượng nam thiếu niên, nhanh nhẹn, xông xáo, mạnh mẽ, hiếu động và thường là hầu cận của một vị thánh quan trong Tứ Phủ Quan Hoàng.
Top