banner 728x90

Ghe Ngo - tài sản văn hóa cộng đồng quý giá của người Khmer Nam Bộ

03/06/2024 Lượt xem: 2372

 

Lễ hội đua ghe ngo của cộng đồng người Khmer

Ghe Ngo cùng với dàn nhạc ngũ âm là tài sản văn hóa sinh hoạt cộng đồng, tôn giáo quý giá và độc đáo của đồng bào dân tộc Khmer miền Tây Nam Bộ. Không có chiếc ghe nào có chiều dài, trọng lượng, trang trí hoa văn tinh xảo, có giá trị lớn và được nhiều người chèo như chiếc ghe Ngo.

Đối với đồng bào dân tộc Khmer, ghe Ngo là một sản phẩm văn hóa, tinh thần có giá trị lớn nên luôn luôn được bảo quản và cất giữ ở chùa. Tại khuôn viên chùa, người ta xây một trại kiên cố có mái che, vách chống mưa, nắng rồi cho ghe Ngo vào bên trong, được kê cao cẩn thận.

Ghe Ngo - phương tiện sử dụng trong lễ hội đua ghe ngo

Ghe Ngo được đóng hoàn toàn từ gỗ cây sao vì gỗ này có tính đàn hồi lớn, giúp chiếc ghe Ngo bơi nhanh khi di chuyển. Trung bình mỗi chiếc ghe Ngo dài từ 28 đến 30 m, vì vậy người ta dùng 5 miếng gỗ sao dài 15m ghép lại làm thân ghe, 2 đầu ghe làm bằng gỗ sao nguyên khối, mỗi khối dài 7,5 m được đẽo cho nhọn và cong. Phía bên trong thân ghe, các mảnh gỗ này nối với các thanh gỗ cong bằng đinh, vừa tạo hình thân vừa làm chỗ ngồi cho 50 vận động viên bơi ghe. Phía bên ngoài sẽ trải qua 2 giai đoạn để làm thân ghe liền khít và không thấm nước. Giai đoạn “xẩm bố”, các mối nối giữa các mảnh gỗ sẽ được người thợ dùng dây bố khít vào các khe hở rồi dùng búa đóng chặt chúng vào trong, người thợ ở cộng đoạn “trét chay” sẽ dùng bột chay (một loại bột khô, mịn) trộn với dầu rồi trét khít vào các khe hở. Hoàn thành xong 2 giai đoạn này, thân ghe sẽ liền khít và hoàn toàn không thấm nước. Giai đoạn tỉ mỉ và tốn công nhất là trang trí bên ngoài thân ghe ngo. Toàn thân ghe ngo được vẽ hoa văn với các màu đặc trưng gồm đỏ, xanh, vàng, cam, đen, trong đó hoa văn ở đầu và đuôi ghe là được gọi là “đọt hoa văn” với những hình trang trí hoa, lá cách điệu nhỏ, nhọn, phần trang trí ở thân ghe ngo được gọi là “lá hoa văn” với những hình hoa, lá to, tròn. Sau khi làm xong ghe, người thợ bắt đầu làm “đòn dong” hay còn gọi là “cần câu” gồm 2 cây tràm lớn nhiều năm tuổi, mỗi cây dài 10 m, được chọn từ những cây tràm to, tròn và cong, một cây nằm từ giữa thân ghe ra đầu ghe, cây kia nằm ở hướng ngược lại, 2 cây “cần câu” này có tác dụng giữ nhịp và tạo độ nhún cho ghe Ngo.

Theo truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer, đua ghe Ngo được tổ chức vào lễ Ok Om Bok (lễ cúng trăng), đua ghe nhằm mục đích cầu mưa thuận gió hòa, đủ nước để mùa màng được tươi tốt. Hiện nay, đua ghe Ngo cũng được tổ chức thành giải thể thao cấp quốc gia, khu vực quy tụ nhiều đội ghe Ngo ở các tỉnh, thành tham dự.

Mỗi ghe Ngo có một đôi đua nam hoặc nữ gồm 85 người, trong đó có 50 người bơi chính thức. Đội đua này tập hợp những người dân Khmer khỏe mạnh, yêu thích bơi ghe Ngo và được huấn luyện bởi một người nhiều kinh nghiệm. Trước mỗi đợt đua, đội ghe Ngo được tập hợp và tập trước trên giàn ở cạnh bờ sông, sau đó tập chính thức với ghe. Vào trận đua, 48 vận động viên cầm mái chèo ngồi thành 2 hàng song song, người thuận tay trái ngồi ở bên trái, người thuận tay phải ngồi bên phải, một người có uy tín trong cộng đồng sẽ ngồi ở phía đầu ghe làm nhiệm vụ chỉ huy, điều chỉnh hướng, người huấn luyện viên ngồi ở đuôi ghe thổi còi để các vận động viên chèo theo nhịp.

Để ghe Ngo di chuyển nhanh và đúng hướng cần có sự phối hợp khéo léo của 50 người ngồi trong ghe, trong đó các vận động viên vừa giữ đúng nhịp theo còi của huấn luyện viên, vừa đúng hướng và đúng tốc độ theo sự điều khiển của người chỉ huy.

Tham gia đua ghe Ngo là một niềm vui và vinh dự lớn của người dân trong các phum, sóc, vì vậy ngoài đội đua hơn 80 người thì nhiều người dân trong vùng cũng đi theo đội ghe Ngo để thưởng thức các trận đấu và cổ vũ đội nhà.

Vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện có 15 ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer nằm ở các vùng có đông đồng bào dân tộc Khơ me, trong đó có 5 chiếc ghe Ngo được bảo quản ở các chùa tại huyện Long Mỹ, thành phố Vị Thanh, Tỉnh Hậu Giang. Đây là những tài sản có giá trị văn hóa, tinh thần quý giá đối với đồng bào dân tộc Khmer cũng như của vùng đồng bằng Sông Cửu Long./.

Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam

Tags:

Bài viết khác

Các hình thức diễn xướng trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Hầu bóng là một nghi lễ tiêu biểu và đặc trưng nhất của tín ngưỡng thờ Mẫu, vốn xuất phát từ người Việt ở Bắc Bộ, nhưng sau đó theo chân người Việt vào Trung Bộ và Nam Bộ, tạo nên những sắc thái riêng cho mỗi miền. Hầu bóng, nhìn từ góc độ văn hóa - nghệ thuật là một hình thức diễn xướng dân gian tổng hợp, một loại hình sân khấu tâm linh.

Lễ hội Nghinh Ông - Nét văn hóa đậm chất dân gian và lâu đời của người dân vùng biển Cần Giờ

Hàng trăm ghe đánh cá của ngư dân huyện Cần Giờ (Tp.Hồ Chí Minh) tham gia đoàn đưa - rước Nghinh Ông, cầu vụ mùa bội thu. Từng đàn hải âu bám theo ghe Nghinh ra khu vực làm lễ. Bên đường người dân lập hương án chờ Nghinh Ông về.

Sự tích hợp các giá trị văn hóa nghệ thuật trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Trong các loại hình văn hóa của con người có một dạng thức văn hóa khá đặc thù, đó là “văn hóa tôn giáo”, như văn hóa Phật giáo, văn hóa Gia tô giáo, văn hóa Ấn giáo và văn hóa Khổng giáo. Đối với một số tín ngưỡng hay tôn giáo sơ khai, chúng ta có thể dõi thấy những dạng thức văn hóa, những quá trình tích hợp văn hóa – nghệ thuật như vậy, trong đó tín ngưỡng thờ Mẫu là một ví dụ khá tiêu biểu.

Lễ hội Nghinh Ông Phú Quốc: Nét đẹp tín ngưỡng thờ Cá Ông của ngư dân đảo ngọc

Lễ hội Nghinh Ông Phú Quốc được xem là lễ hội dân gian lâu đời của ngư dân trên đảo ngọc. Hằng năm, lễ hội đều được tổ chức để tỏ lòng thành kính đối với Cá Ông, cũng như mong muốn một năm mưa thuận gió hoà.

Ý nghĩa tượng Phúc Lộc Thọ

Từ xa xưa, con người luôn tin vào sức mạnh của thần linh để cầu chúc cho niềm vui, tuổi thọ và sức khỏe. Đặc biệt, tượng Phúc - Lộc - Thọ luôn được tôn thờ để gắn kết với những điều tốt đẹp này.

Tín ngưỡng thờ cúng trong các nhà thờ họ ở vùng biển

Nhà thờ họ là một công trình kiến trúc truyền thống của người Việt, được xây dựng để thờ cúng tổ tiên của một dòng họ. Đây là nơi con cháu trong dòng họ tập trung vào những dịp quan trọng như ngày giỗ tổ, lễ Tết, hay các nghi lễ tôn giáo khác để tưởng nhớ và bày tỏ lòng thành kính với tổ tiên.

Những mặt hạn chế, tiêu cực của tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ lên đồng

Bản thân tín ngưỡng thờ Mẫu là hệ thống các tín ngưỡng ở các trình độ phát triển rất khác nhau, từ sơ khai, nguyên thủy như các hình thức thờ Nữ thần đến các hình thức phát triển cao hơn là thờ Mẫu Tam Phủ Tứ Phủ.

Vẻ đẹp văn hóa trong nghệ thuật múa dân gian của người Dao

Khởi nguồn từ đời sống lao động và những ước mơ về cuộc sống thanh bình, hạnh phúc, nghệ thuật múa dân gian của người Dao phản chiếu những góc nhìn văn hóa đa chiều về cuộc sống, tín ngưỡng và bản sắc văn hóa Dao.
Top