banner 728x90

Ghe Ngo - tài sản văn hóa cộng đồng quý giá của người Khmer Nam Bộ

03/06/2024 Lượt xem: 2993

 

Lễ hội đua ghe ngo của cộng đồng người Khmer

Ghe Ngo cùng với dàn nhạc ngũ âm là tài sản văn hóa sinh hoạt cộng đồng, tôn giáo quý giá và độc đáo của đồng bào dân tộc Khmer miền Tây Nam Bộ. Không có chiếc ghe nào có chiều dài, trọng lượng, trang trí hoa văn tinh xảo, có giá trị lớn và được nhiều người chèo như chiếc ghe Ngo.

Đối với đồng bào dân tộc Khmer, ghe Ngo là một sản phẩm văn hóa, tinh thần có giá trị lớn nên luôn luôn được bảo quản và cất giữ ở chùa. Tại khuôn viên chùa, người ta xây một trại kiên cố có mái che, vách chống mưa, nắng rồi cho ghe Ngo vào bên trong, được kê cao cẩn thận.

Ghe Ngo - phương tiện sử dụng trong lễ hội đua ghe ngo

Ghe Ngo được đóng hoàn toàn từ gỗ cây sao vì gỗ này có tính đàn hồi lớn, giúp chiếc ghe Ngo bơi nhanh khi di chuyển. Trung bình mỗi chiếc ghe Ngo dài từ 28 đến 30 m, vì vậy người ta dùng 5 miếng gỗ sao dài 15m ghép lại làm thân ghe, 2 đầu ghe làm bằng gỗ sao nguyên khối, mỗi khối dài 7,5 m được đẽo cho nhọn và cong. Phía bên trong thân ghe, các mảnh gỗ này nối với các thanh gỗ cong bằng đinh, vừa tạo hình thân vừa làm chỗ ngồi cho 50 vận động viên bơi ghe. Phía bên ngoài sẽ trải qua 2 giai đoạn để làm thân ghe liền khít và không thấm nước. Giai đoạn “xẩm bố”, các mối nối giữa các mảnh gỗ sẽ được người thợ dùng dây bố khít vào các khe hở rồi dùng búa đóng chặt chúng vào trong, người thợ ở cộng đoạn “trét chay” sẽ dùng bột chay (một loại bột khô, mịn) trộn với dầu rồi trét khít vào các khe hở. Hoàn thành xong 2 giai đoạn này, thân ghe sẽ liền khít và hoàn toàn không thấm nước. Giai đoạn tỉ mỉ và tốn công nhất là trang trí bên ngoài thân ghe ngo. Toàn thân ghe ngo được vẽ hoa văn với các màu đặc trưng gồm đỏ, xanh, vàng, cam, đen, trong đó hoa văn ở đầu và đuôi ghe là được gọi là “đọt hoa văn” với những hình trang trí hoa, lá cách điệu nhỏ, nhọn, phần trang trí ở thân ghe ngo được gọi là “lá hoa văn” với những hình hoa, lá to, tròn. Sau khi làm xong ghe, người thợ bắt đầu làm “đòn dong” hay còn gọi là “cần câu” gồm 2 cây tràm lớn nhiều năm tuổi, mỗi cây dài 10 m, được chọn từ những cây tràm to, tròn và cong, một cây nằm từ giữa thân ghe ra đầu ghe, cây kia nằm ở hướng ngược lại, 2 cây “cần câu” này có tác dụng giữ nhịp và tạo độ nhún cho ghe Ngo.

Theo truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer, đua ghe Ngo được tổ chức vào lễ Ok Om Bok (lễ cúng trăng), đua ghe nhằm mục đích cầu mưa thuận gió hòa, đủ nước để mùa màng được tươi tốt. Hiện nay, đua ghe Ngo cũng được tổ chức thành giải thể thao cấp quốc gia, khu vực quy tụ nhiều đội ghe Ngo ở các tỉnh, thành tham dự.

Mỗi ghe Ngo có một đôi đua nam hoặc nữ gồm 85 người, trong đó có 50 người bơi chính thức. Đội đua này tập hợp những người dân Khmer khỏe mạnh, yêu thích bơi ghe Ngo và được huấn luyện bởi một người nhiều kinh nghiệm. Trước mỗi đợt đua, đội ghe Ngo được tập hợp và tập trước trên giàn ở cạnh bờ sông, sau đó tập chính thức với ghe. Vào trận đua, 48 vận động viên cầm mái chèo ngồi thành 2 hàng song song, người thuận tay trái ngồi ở bên trái, người thuận tay phải ngồi bên phải, một người có uy tín trong cộng đồng sẽ ngồi ở phía đầu ghe làm nhiệm vụ chỉ huy, điều chỉnh hướng, người huấn luyện viên ngồi ở đuôi ghe thổi còi để các vận động viên chèo theo nhịp.

Để ghe Ngo di chuyển nhanh và đúng hướng cần có sự phối hợp khéo léo của 50 người ngồi trong ghe, trong đó các vận động viên vừa giữ đúng nhịp theo còi của huấn luyện viên, vừa đúng hướng và đúng tốc độ theo sự điều khiển của người chỉ huy.

Tham gia đua ghe Ngo là một niềm vui và vinh dự lớn của người dân trong các phum, sóc, vì vậy ngoài đội đua hơn 80 người thì nhiều người dân trong vùng cũng đi theo đội ghe Ngo để thưởng thức các trận đấu và cổ vũ đội nhà.

Vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện có 15 ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer nằm ở các vùng có đông đồng bào dân tộc Khơ me, trong đó có 5 chiếc ghe Ngo được bảo quản ở các chùa tại huyện Long Mỹ, thành phố Vị Thanh, Tỉnh Hậu Giang. Đây là những tài sản có giá trị văn hóa, tinh thần quý giá đối với đồng bào dân tộc Khmer cũng như của vùng đồng bằng Sông Cửu Long./.

Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam

Tags:

Bài viết khác

Tín ngưỡng thờ Mẫu: Nét đẹp văn hóa dân tộc

Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian mang sắc thái nguyên thủy và có chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc ta. Nói về nguồn gốc hình thành, một số nhà nghiên cứu cho rằng, tục thờ Thánh Mẫu có từ thời Tiền sử khi người Việt thờ các thần linh thiên nhiên kết hợp với tín ngưỡng thờ nữ thần rất phát triển trong xã hội mẫu hệ. Qua quá trình tiếp biến văn hóa, tín ngưỡng thờ mẹ thiên nhiên ban đầu đã hòa cùng các tôn giáo khác để trở thành một tín ngưỡng bản địa riêng có của Việt Nam.

Các nghi lễ trong thờ cúng tổ tiên của người Việt

Thờ cúng tổ tiên là một trong những phong tục truyền thống quan trọng trong văn hóa dân tộc Việt Nam. Đây là một cách thể hiện lòng hiếu thảo, tôn kính và nhớ về cội nguồn của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Các nghi thức, nghi lễ trong thờ cúng tổ tiên thường được thực hiện trong các dịp đặc biệt như Tết Nguyên Đán, ngày giỗ tổ, lễ cúng ông Công ông Táo, và nhiều dịp quan trọng khác. Dưới đây là một số nghi thức và nghi lễ phổ biến trong thờ cúng tổ tiên:

Văn hóa cúng tiền chủ trong tín ngưỡng dân gian

Trong tín ngưỡng dân gian, cúng tiền chủ là một phong tục phổ biến tại nhiều gia đình, đặc biệt vào các ngày Rằm, Mồng Một, Giỗ Tết hoặc khi có điều gì không ổn trong nhà. Người ta tin rằng tiền chủ là người đã sống và qua đời trước tiên trong ngôi nhà này, và dù thời gian trôi qua, ngôi nhà có thể chuyển từ tay gia chủ này sang gia chủ khác, nhưng tiền chủ vẫn luôn dõi theo và thỉnh thoảng quay về thăm ngôi nhà cũ.

Những nguyên tắc khi bốc bát hương thờ cúng: Quy tắc và ý nghĩa tâm linh

Trong tín ngưỡng thờ cúng của người Việt, bát hương (lư hương) đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nó không chỉ là một vật phẩm trang trí trên bàn thờ mà còn là nơi để giao tiếp giữa thế giới trần gian và thế giới tâm linh. Tuy nhiên, việc lập bát hương không phải là điều đơn giản, và có những nguyên tắc cần tuân thủ để việc thờ cúng được linh ứng.

Đình làng - thiết chế văn hóa tín ngưỡng

Đình làng có vị trí, vai trò quan trọng trong xã hội Việt Nam thời phong kiến, nhất là vùng đồng bằng Bắc bộ. Đình làng được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ra đời vào thời Lê –Mạc, là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng, một biểu tượng của tính cộng đồng, trung tâm văn hóa, hành chính của làng xã truyền thống.

Nhà Lớn Long Sơn và Lễ hội Trùng Cửu: Dấu ấn tín ngưỡng bản địa Nam Bộ

Mỗi năm, vào các ngày 7, 8 và 9 tháng 9 âm lịch, người dân đảo Long Sơn (TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũ, nay là xã Long Sơn, Tp. Hồ Chí Minh) lại nô nức hướng về Nhà lớn Long Sơn để tham dự Lễ hội Trùng Cửu – một trong những lễ hội truyền thống lớn và giàu ý nghĩa nhân văn bậc nhất của vùng đất biển này.

Tín ngưỡng Giàng Knée – Sợi dây thiêng liêng kết nối cộng đồng người Pa Cô

Đối với người Pa Cô nói riêng và đồng bào các dân tộc thiểu số miền Tây Quảng Trị nói chung, thế giới luôn tồn tại song song hai chiều không gian: trần thế và linh giới. Trong đó, vạn vật – từ con người đến cây cỏ, muông thú – đều có linh hồn và chịu sự chi phối của các thế lực siêu nhiên. Quan niệm này hình thành nên tín ngưỡng vạn vật hữu linh, gắn bó sâu sắc với đời sống văn hóa – tinh thần của cộng đồng.

Quan niệm về Thiên đường và Địa ngục trong tín ngưỡng dân gian của người Tày, Nùng

Trong hệ thống tín ngưỡng dân gian của người Tày và Nùng, tồn tại một vũ trụ quan phân tầng, nơi các lực lượng siêu nhiên được chia thành nhiều loại, cư ngụ tại các không gian khác nhau và có mối quan hệ tác động qua lại với con người. Một trong những biểu hiện đặc trưng là niềm tin vào các loại "phi" (ma, linh hồn), cũng như quan niệm về Thiên đường và Địa ngục (âm phủ).
Top