banner 728x90

Đồng thầy - “nghệ nhân dân gian” giữ gìn và trao truyền các thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu

17/10/2024 Lượt xem: 2747

Mặc dù hiện nay còn có các ý kiến không đồng tình với quan niệm đồng thầy là nghệ nhân dân gian và phản đối việc trao danh hiệu nghệ nhân dân gian cho họ, song chúng tôi vẫn cho rằng, xét trên phương diện gìn giữ và trao truyền các giá trị văn hóa dân gian cho các thế hệ mai sau thì đồng thầy đích thực là một nghệ nhân dân gian. Cũng giống như các nghệ nhân hát xoan, quan họ hay ví dặm… đồng thầy truyền lại những kiến thức và cả thực hành tín ngưỡng cho các tín đồ của mình, tất nhiên nội dung trao truyền và cách thức trao truyền của đồng thầy khác với các loại nghệ nhân.

Khi khảo sát bản hội thờ Mẫu ở một số tỉnh thành miền Bắc, chúng tôi luôn được nghe các thành viên nhắc tới một câu nói vần điệu “người đi trước rước kẻ đi sau” với ý nghĩa người đến với Mẫu trước dìu dắt và giúp đỡ người đến sau. Trong một bản hội, rõ ràng đồng thầy là người đến với Mẫu trước, người có nhiều trải nghiệm tâm linh, hiểu được cách thức lễ Mẫu, cách thức thực hành các nghi lễ thờ Mẫu hơn bất kỳ tín đồ nào. Do đó, đồng thầy “rước kẻ đi sau”, đưa họ đến với Thánh Mẫu và dẫn dắt, trao truyền cho họ cách thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu.

Để thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu, các tín đồ phải có những hiểu biết, kiến thức về đời sống tâm linh. Đồng thầy chính là người trao truyền những hiểu biết đó cho các đệ tử của mình. Trong thực tế, nhiều người Việt Nam bao gồm cả các tín đồ thờ Mẫu thường nặng về thực hành mà thiếu những hiểu biết mang tính lý thuyết về tôn giáo tín ngưỡng. Họ đến chùa lễ Phật nhưng dường như không biết đến các sự tích về Đức Phật, không hiểu những giáo lý, giáo luật của Phật giáo. Họ cũng ít hiểu ý nghĩa của các biểu tượng trong chùa. Họ thờ cúng tổ tiên tại gia nhưng ít hiểu vì sao lễ vật trên ban thờ phải có chén nước trắng, chiếc đèn dầu,… Các tín đồ thờ Mẫu cũng vậy, ban đầu đến với tín ngưỡng thờ Mẫu đa phần không hiểu biết hoặc mơ hồ về hệ thống điện thần với thần tích của các vị thánh, về các nghi lễ thờ Mẫu và chức năng của các nghi lễ đó, v.v… Khi gia nhập vào bản hội và trở thành tín đồ của đồng thầy, chính đồng thầy đã giúp họ bồi đắp lỗ hổng kiến thức. Khi chúng tôi đến một số bản hội, nhiều tín đồ kể với chúng tôi một cách chi tiết sự tích ông Hoàng Mười, Hoàng Bảy, chúa Thác Bờ, v.v… Khi chúng tôi xem hầu đồng, nhiều thành viên bản hội nhiệt tình chỉ cho chúng tôi cách phân biệt các giá đồng căn cứ vào văn chầu, vào cách ra dấu tay của đồng thầy và vào màu sắc trang phục của người lên đồng. Họ cũng giải thích vì sao thánh này phải múa cờ múa kiếm trong khi thánh kia lại múa quạt múa mồi, v.v… Và họ cũng thừa nhận với chúng tôi rằng, khi mới vào bản hội, họ chưa hiểu hết ý nghĩa của các biểu tượng trong nghi lễ, chính đồng thầy đã giải thích cho họ như vậy. Không chỉ trao truyền những hiểu biết về các vị thánh, về các không gian thiêng thờ tự, đồng thầy còn giúp các tín đồ diễn giải những giấc mơ với nhiều nỗi lo và sợ hãi. Một trong những đặc điểm của các tín đồ thờ Mẫu là có đời sống tâm sinh lý đặc biệt. Nhiều người ốm đau bệnh tật đến mức điên loạn, chữa mãi không khỏi, hoặc đi bệnh viện nhưng không tìm ra bệnh, một thứ bệnh mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là “bệnh âm” đối lập với bệnh dương. Họ thường xuyên mơ thấy rắn, đỉa, hoặc ở trên thiên đình hay dưới địa ngục khiến họ mông lung, chênh vênh không biết mình là ai, không hiểu vì sao lại hay gặp những giấc mơ như vậy. Đồng thầy với những trải nghiệm đi trước của mình đã diễn giải ý nghĩa của những giấc mơ đó và làm yên lòng họ bằng các liệu pháp tâm linh.

Không chỉ trao truyền các kiến thức về đạo Mẫu nói riêng và về đời sống tâm linh nói chung, đồng thầy còn trao truyền cho các tín đồ của mình các cách thức thực hành nghi lễ. Nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu như đã nói ở trên rất phong phú và đa dạng. Phục vụ cho các nghi lễ đó là rất nhiều các mảng khác nhau, như: hầu đồng, hát văn, cúng, cầu xin, chuẩn bị lễ vật, viết sớ biểu, lên khăn áo, v.v… Mỗi mảng như vậy bao gồm nhiều khâu phức tạp. Chính đồng thầy trải qua thời gian đã chỉ bảo cho các đệ tử của mình. Chẳng hạn, về thực hành nghi lễ hầu đồng, có những tân đồng (người vừa mới được trình đồng mở phủ) là những “đồng trơ”, “đồng đá” khi ở trên chiếu hầu (theo cách gọi của các tín đồ thờ Mẫu) không biết múa đồng thế nào, bước chân, ra dấu thánh nhập ra sao. Qua quan sát, chúng tôi đã chứng kiến nhiều đồng thầy ngồi dưới đã chỉ bảo những điều đó cho con đồng của mình. Việc chuẩn bị lễ vật cũng không đơn giản. Một người đàn ông trung niên của một bản hội ở Hà Nội với thâm niên 14 năm làm nghề chấp tác cho biết, trước khi làm nghề này tại bản hội anh làm nghề bốc vác, rồi xe ôm… nên anh không hiểu về tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung và lễ vật cúng Mẫu nói riêng. Khi vào bản hội làm chấp tác, đồng thầy đã dạy cho anh làm lễ vật cúng Sơn Trang thì phải gồm những gì, lễ vật cho nghi lễ trình đồng mở phủ, di cung hoán số, trả nợ tào quan,… thì phải khác ra sao.

Không giống các nghệ nhân quan họ, hay hát xoan trao truyền các thực hành văn hóa thông qua các lớp học tập. Các tôn giáo như Công giáo và Phật giáo đều có các trường học đào tạo linh mục và tăng ni để thực hành các nghi lễ của các tôn giáo này, dẫn dắt các tín đồ hành lễ thể hiện niềm tin với Chúa, với Đức Phật. Trở thành một thanh đồng hay một tín đồ nói chung của tín ngưỡng thờ Mẫu thì không như vậy. Các thanh đồng và các tín đồ không được tập hợp thành một lớp để học về các vị thánh với công tích, công trạng của họ, cũng như học cách thực hành nghi lễ thờ Mẫu thế nào cho đúng. Thông thường đồng thầy trao truyền cho các tín đồ thông qua các thực hành cụ thể trực tiếp của mình.

Việc quan sát các đồng thầy thực hiện các vấn hầu, sắp lễ hay viết sớ cũng giúp các tín đồ học hỏi một cách trực quan sinh động. Cũng như vậy, đồng thầy dẫn các tân đồng đi trình cửa Cha cửa Mẹ, hay dẫn các đệ tử đi hành hương đến các đền phủ ở khắp nơi trên đất nước cũng giúp họ tận mục sở thị và tự mình rút ra những bài học. Sự phát triển của công nghệ số đã giúp các đồng thầy có thêm một kênh thông tin để trao truyền các thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu cho các tín đồ một cách nhanh chóng mọi nơi mọi lúc dù họ ý thức về điều này hay không. Hầu hết các đồng thầy (thậm chí ngay cả các đồng cựu) đều có trang facebook của mình, ở đó họ cập nhật hàng ngày các công việc của bản hội, lịch các ngày làm lễ, lịch đi lễ xa,… Đồng thầy cũng không quên viết về ý nghĩa của các nghi lễ, giới thiệu về các giá hầu, các đền phủ,… Tín đồ là những người theo dõi (followers) trang facebook của đồng thầy sẽ học hỏi được nhiều điều và nếu không hiểu họ sẽ “comment” (bình luận) trực tiếp trên facebook và được đồng thầy giải đáp ngay các thắc mắc.

Có thể nói, vai trò trao truyền các thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu của đồng thầy cho các tín đồ trong bản hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc gìn giữ các giá trị văn hóa dân gian đậm đà bản sắc Việt Nam. Bởi chúng ta biết, các cách thức và ý nghĩa của việc thực hành các nghi lễ của tín ngưỡng thờ Mẫu không được ghi chép trong kinh sách như các tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam mà nó hoàn toàn là các thực hành mang tính truyền khẩu. Nếu không có những đồng thầy am tường kiến thức về đời sống tâm linh, nhiệt huyết trong thực hành các nghi lễ phụng thờ Thánh Mẫu và mong muốn trao truyền điều đó cho các tín đồ của mình thì các giá trị đó sẽ bị mai một theo thời gian. Với vai trò gìn giữ và trao truyền các thực hành tín ngưỡng của mình cho các thế hệ tín đồ (những người có thể sẽ trở thành đồng thầy sau này), đồng thầy đã góp phần quan trọng để các thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu được duy trì qua năm tháng và hiện nay được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam

 

 

 

Tags:

Bài viết khác

Những loại hoa, quả nên thắp ngày Tết Đoan Ngọ

Chọn đúng hoa, chọn kỹ quả vào ngày Tết Đoan Ngọ không chỉ để dâng lên tổ tiên mà còn thể hiện sự hiểu biết, giữ gìn nếp nhà và bản sắc truyền thống giữa nhịp sống hiện đại.

Đền thờ Mẫu - Chốn linh thiêng ở kỳ quan Đèo Ngang

Nằm trên hành trình thiên lý Bắc – Nam, Đền thờ Mẫu Liễu Hạnh đã trở thành điểm đến tâm linh đầy huyền bí. Qua bao cuộc biến thiên, tích xưa “Công chúa Quỳnh Hoa giáng trần giúp dân bản tránh khỏi nạn dịch, xua đuổi thú dữ, dạy người trồng lúa…” vẫn trường tồn ở vùng đất sơn thủy hữu tình này.

Cúng, khấn, vái và lạy trong nghi lễ thờ cúng

Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương: Bản sắc văn hóa của người Việt Nam

Việc thờ cúng Hùng Vương đã ăn sâu, lan tỏa rộng khắp, nơi đâu có người Việt sinh sống thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên - thờ các vua Hùng được người Việt tôn vinh và thờ tự.

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).
Top