banner 728x90

Đồng thầy với vai trò bảo tồn và tu bổ các đền phủ - không gian thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu

19/10/2024 Lượt xem: 2588

Là một đất nước có đời sống tâm linh sâu đậm, Việt Nam có một hệ thống đình, đền, chùa phân bố dày đặc trên khắp cả nước, trong số đó, các đền phủ và các chùa có điện thờ Mẫu chiếm một tỷ lệ đáng kể. Các đền phủ đó chính là những không gian thiêng, nơi diễn ra các thực hành tín ngưỡng, nơi người Việt Nam nói chung và các tín đồ thờ Mẫu nói riêng thường gắn bó. Không có các đền phủ, các tín đồ thờ Mẫu không có không gian thiêng bày tỏ lòng thành kính và thực hành các nghi lễ thể hiện niềm tin đối với các vị thánh.

Nghệ nhân, đồng thầy Lê Thị Thuý loan giá phụng hầu, cung nghinh chúc Thánh

Tuy nhiên, trải qua thời gian chiến tranh, rất nhiều đền phủ trên khắp cả nước đã bị phá hủy, hoặc xuống cấp nghiêm trọng. Thêm vào đó, một thời gian dài trước Đổi mới, tôn giáo tín ngưỡng bị coi là mê tín dị đoan cần phải loại bỏ, khiến cho nhiều cơ sở thờ tự ở nhiều nơi lâm vào cảnh hoang phế, hoang tàn. Nhiều không gian thiêng bị biến thành nhà kho hoặc trở thành nơi dạy học. Các đền phủ thờ Mẫu cũng cùng chung số phận như vậy. Khi các đền phủ bị hư hại, xuống cấp hoặc bị phá hủy thì các thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu, đặc biệt là hầu đồng trở nên vắng bóng, những người có căn quả phải “hầu chui” hoặc “hầu vo” (tức hầu không có âm nhạc). Trong bối cảnh như vậy, đồng thầy, các chủ nhang là những người “bám đền bám phủ”, âm thầm gắn bó và duy trì cơ sở thờ tự, đặc biệt là những đền phủ công có sự kế thừa từ đời đồng thầy này đến đời đồng thầy khác. Sau Đổi mới, với sự cởi mở trong chính sách tôn giáo, tín ngưỡng của nhà nước, sự tăng trưởng trong đời sống kinh tế,… đời sống tâm linh ở Việt Nam được phục hưng trở lại, trong đó lên đồng hầu thánh được coi là có sự phát triển “bộc phát” (chữ dùng của Philip Taylor). Một phong trào phục hồi và tu bổ các cơ sở thờ tự trở nên sôi nổi từ nông thôn đến thành thị, từ đồng bằng đến miền núi. Các đồng thầy - những người mà cả cuộc đời của họ gắn liền với đền phủ lúc này đã trở thành một trong những lực lượng đi đầu và năng nổ nhất trong việc phục hồi và tu bổ đó. Trước hết, họ sửa chữa, xây mới và “làm sống lại” bản đền của họ. Tiếp đến, họ cũng trợ duyên để phục hồi lại các đền phủ khác trên khắp cả nước. Có những đồng thầy hoàn toàn tự bỏ công sức và vật chất để xây dựng lại đền phủ. Có những đồng thầy bên cạnh công sức của mình còn huy động sức mạnh của cả tập thể bản hội, sự đóng góp của tín đồ. Có thể kể đến một số đồng thầy ở Hà Nội có nhiều đóng góp, như: đồng thầy T. ở đền An Thọ, đồng thầy H. ở đền Hàng Bạc, đồng thầy Đ. ở đền Lảnh Giang Vọng Từ, v.v… Theo lời kể của đồng thầy Đ., ngôi đền hiện nay vốn là điện thờ rất khang trang, được xây từ năm 1904 thờ Quan lớn Đệ Tam. Nhưng vì chiến tranh và nhiều lý do khác, đồ thờ cúng, chuông khánh, bia đá đều mất, chỉ còn lại một vài pho tượng đất, như: tượng Mẫu, tượng Quan Tam phủ, tượng Quan lớn Tuần Tranh, tượng Đức Thánh Trần. Năm đồng thầy Đ. 28 tuổi, ngôi điện bị sụp đổ nhưng đồng thầy Đ. và người bà của mình đã cùng nhau sửa chữa với chi phí là 6 chỉ vàng. Sau rất nhiều lần sửa chữa, những năm gần đây khi phố Hàng Hành dần chuyển sang kinh doanh khách sạn nhiều, đồng thầy Đ. đã xây dựng lại và chuyển đền lên tầng 8. Không chỉ gìn giữ, tu bổ và xây mới chốn tổ của mình, hàng năm đồng thầy Đ. cùng tín đồ còn đi chiêm bái các nơi, làm từ thiện, công đức nhân duyên tại các đền phủ (đền Mẫu Tam Đảo, đền Bảo Hà, đền Đông Cuông, đền Cờn Nghệ An, đền Sòng Thanh Hóa…), công đức tại các nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, đường 9 Nam Lào… Với đồng thầy T., bên cạnh việc trông nom, gìn giữ và tu bổ đền An Thọ, ngay từ những năm 1980, thầy T. đã đứng ra xây dựng đền Hàn Sơn (phố Hàng Bột), sau này thầy T. cùng cụ đồng Xuân cũng trợ duyên xây dựng đền Sòng… Không chỉ riêng các đồng thầy ở Hà Nội, hầu hết các đồng thầy ở các tỉnh thành khác cũng đều tâm huyết, thiết tha với việc gìn giữ và tu bổ các không gian tâm linh, như: đồng thầy V. (Phủ Nấp, Nam Định), đồng thầy Th. (Nam Định),… Chẳng hạn, đồng thầy Th. đi nhiều nơi trên cả nước, thấy đền phủ nào hoang tàn thì đều quyên góp để trùng tu xây dựng, cứ đến mỗi đền, chùa thầy Th. lại thành tâm công đức và đóng góp làm hoành phi, câu đối…

Có thể nói, những đóng góp của các đồng thầy trong việc tu bổ và xây dựng các đền phủ rất có ý nghĩa; thực sự góp phần làm sống lại các không gian thiêng; tạo điều kiện để các thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng và thực hành tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam nói chung được diễn ra thuận lợi và sôi nổi; đáp ứng nhu cầu tâm linh cao của người dân trong xã hội hiện nay.

Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam

 

 

Tags:

Bài viết khác

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Việt Nam

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều mang trong mình những nét văn hóa riêng. Văn hóa là cái gốc cho sự phát triển, phồn thịnh của một đất nước. Việt Nam là một dân tộc mang một nền văn hóa đậm đà bản sắc, đa dạng và phong phú. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam từ lâu đã đóng vai trò quan trọng đối với người dân Việt, văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tâm thức người dân.

Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội cổ truyền ở Việt Nam

Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong các lễ hội cổ truyền của Việt Nam, thể hiện bản sắc văn hóa, tâm linh và lòng tôn kính đối với các thế lực siêu nhiên, Tổ tiên, thần thánh. Bài viết tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật về tín ngưỡng dân gian trong các lễ hội cổ truyền của người Việt, đặc biệt, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu...

Ý nghĩa và mục đích của tục “Bán khoán con lên chùa”

Bán khoán con cho chùa là một tín ngưỡng dân gian, một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh. Có hai hình thức bán khoán con lên chùa: Bán khoán đến hết năm 12 tuổi rồi “chuộc” con ra, hoặc là bán khoán trọn đời. Từ xưa đến nay, nhiều gia đình quan niệm, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, khóc lóc không phải là do bị bệnh từ thân hoặc những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch).
Top