banner 728x90

Đàn tính – Nét đẹp văn hoá của người Tày

03/01/2025 Lượt xem: 2545

Ở Việt Nam hiện nay dân số người Tày vào khoảng 1,5 triệu người, sống chủ yếu ở vùng núi phía bắc và bắc trung bộ. Đây là dân tộc có dân số lớn thứ hai ở Việt Nam sau dân tộc kinh. Cũng giống như các dân tộc khác, dân tộc tày có những nét văn hoá đặc trưng riêng của mình, trong đó đàn tính là một phương tiện giao tiếp mang đậm bản sắc văn hoá của người Tày.

Chỉ với một cây tính, cùng với nhạc chuông tay có thể tạo nên một âm thanh rộn ràng, rạo rực cho những điệu xoè. Trong những lễ hội, trong các ngày trọng đại của làng, của bản đều có những điệu xoè then. Xoè then như một biểu trưng gắn kết cộng đồng, tạo lên sức mạnh tập thể. Xoè then của người Tày không giống với xoè của người Thái. Bởi đặc điểm của âm thanh đàn tính, giai điệu dứt khoát, mạnh mẽ mà các động tác múa xoè của người Tày theo đó cũng mạnh mẽ. Âm thanh lúc liên tục dồn dập, lúc trầm lúc bổng làm nhộn nhịp trái tim bao chàng trai cô gái, để cùng xoè, cùng cầu cho mùa màng tươi tốt, cho bản làng yên bình, cho lứa đôi hạnh phúc.

Cùng với xoè then, là những điệu múa dân gian, mà nổi bật là điệu múa lăn đàn tính đầy tinh thần thượng võ. Các chàng trai căng tràn sức trẻ vừa gẩy đàn, vừa di chuyển với những động tác dứt khoát mà uyển chuyển, lăn người theo điệu tính. Khi múa tay chơi tính, chân bước theo nhịp tính, rồi xoay rồi bước. Ở bất kỳ một tư thế nào thì người múa vẫn ung dung tự tại, tay gẩy tính. Khi lăn người thì đầu và tính không được chạm đất, tất cả sức bật được dồn vào hai chân và cơ bụng rắn chắc, khiến cho điệu múa vừa mềm mại lại vừa khoẻ khoắn.

Đàn tính có mặt trong tất cả các ngày vui, ngày trọng đại của bản người Tày như hội xuân đón năm mới, mừng nhà mới, ngày cưới, lễ mừng thượng thọ, mừng thăng quan, tiến chức… Nó là phần quan trọng trong nghệ thuật dân ca, dân vũ của người Tày.

Những vật liệu làm nên chiếc đàn tính đều đơn giản, dễ kiếm bởi đó là những thứ quanh năm gắn bó với cuộc sống của đồng bào. Bầu đàn còn gọi là bầu vang làm bằng nửa quả bầu khô; Cần đàn thường làm bằng gỗ dâu; dây đàn thì làm bằng tơ xe. Chỉ bao nhiêu ấy thôi mà có thể tạo nên một thứ âm thanh đặc biệt cho câu hát, điệu múa, cho những lễ hội ngày xuân, cho lòng người không rời, cho trai gái gần nhau.

Làm đàn tính khó nhất là tìm quả bầu. Phải chọn được quả bầu không quá to, cũng không quá nhỏ, phải già, hình dáng bên ngoài phải tròn đẹp, vỏ dày, gõ vào phải kêu thật đanh. Như thế đàn mới có âm sắc chuẩn. Cần đàn phải nhẹ và thẳng, chiều dài phải bằng 9 nắm tay của người chơi, theo kinh nghiệm dân gian, số đo cỡ nào thì hợp với giọng hát của người có số đo ấy. Cần đàn trơn, không có phím bấm, người chơi tính phải có khả năng diễn tấu linh hoạt.Nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng chưa đủ cho một cây tính hay bởi đó còn là niềm đam mê cho tiếng đàn tính bay cao bay xa, là lòng tự hào dân tộc và thêm một chút tài hoa đặc biệt của người nghệ nhân.

Mỗi dịp xuân về các chàng trai lại cùng nhau đua tài trong điệu múa lăn, các cô gái khoe sắc với làn điệu then mượt mà và để rồi tất cả cùng tay trong tay trong điệu xoè cầu phúc cho bản làng, thắt chặt tình đoàn kết dân tộc.Âm thanh của cây tính, của điệu hát then, của những đêm xoè rạo rực ấy như dòng suối chảy mãi từ mùa xuân này tới mùa xuân khác, từ mùa lúa này tới mùa lúa khác và từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó trường tồn cùng thời gian và như một biểu tượng của hồn dân ca dân vũ của người Tày.

Nguồn: baothainguyen.vn

 

 

Tags:

Bài viết khác

Tết Thanh minh của người Dao

Tết Thanh minh không chỉ là dịp để tưởng nhớ tổ tiên mà còn là một nét văn hóa đặc sắc của nhiều dân tộc thiểu số, trong đó có người Dao Quần Chẹt ở các tỉnh Tuyên Quang, Hòa Bình, Vĩnh Phúc. Đây là dịp để con cháu sum vầy, thể hiện lòng thành kính với bậc tiền nhân, đồng thời lưu giữ những phong tục truyền thống.

Nét văn hóa trong trang phục dân tộc H’mông

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H’mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Cùng với tiếng nói, chữ viết, trang phục cũng là một trong những chi tiết quan trọng đầu tiên để nhận biết và phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Trang phục truyền thống không chỉ mang đậm bản sắc văn hóa, mà còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật, giá trị lịch sử của từng tộc người.

Những tấm dệt đan sắc núi rừng

Giữa sắc thẫm của đại ngàn Trường Sơn, đây đó nổi lên màu trắng của những dải mây vành khăn ở lưng chừng núi, màu đỏ của hoa gạo, hoa chuối, màu xanh của cây cỏ, màu vàng của lá úa rơi rụng, hay màu tím của hoàng hôn, màu của những tia nắng tán sắc cuối chân trời khi chiều muộn… Tất cả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mà người Tà Ôi ở không gian sống của chính tộc người mình

Những điều cần biết về tục thờ Linga và Yoni của người Chăm

Tục thờ Linga và Yoni có nguồn gốc từ cộng đồng người sống ở vùng lưu vực sông Ấn, thuộc chủng tộc Sumerian và Dravidan. Tín ngưỡng của họ gắn liền với thần thoại về thần mẹ và sự thờ cúng âm lực, coi sinh thực khí là nguồn gốc của mọi sự sáng tạo.

Các phong tục cần biết khi đến các làng bản của người dân tộc

Đồng bào các dân tộc Bắc Hà nói riêng và Lào Cai nói chung rất hiếu khách, nhưng khi du khách đến thăm làng, bản nên chú ý những điều kiêng kỵ và cần biết một vài phong tục, tập quán sinh hoạt để tiện ứng xử và giao tiếp.

Nhuộm răng đen - Phong tục lâu đời của người Việt

Nhuộm răng đen là một tục lệ lâu đời, xuất hiện từ thời Hùng Vương, tồn tại suốt mấy ngàn năm trong lịch sử văn hóa của người Việt. Đây vốn là phong tục cổ truyền không chỉ của cư dân người Việt mà còn tồn tại ở cộng đồng các dân tộc như Thái, Mường, Dao, Lự, Si La,…Trong cộng đồng người Việt, tục nhuộm răng đen chủ yếu chỉ phổ biến ở khu vực miền Bắc và miền Trung, còn ở miền Nam không thấy dấu vết của phong tục này.

Thala – nét đẹp văn hóa cộng đồng của người Khmer

Trên đường vào các phum, sóc của đồng bào Khmer Nam Bộ, đi khoảng một vài cây số, ta dễ dàng bắt gặp những ngôi nhà từ vài mét đến vài chục mét vuông, nép dưới bóng chùa hay bóng cây. Đó là các điểm dừng, nghỉ cho khách đi đường, do bà con dân tộc Khmer xây dựng. Tiếng Khmer gọi đó là các “Thala” (Schla).

Nghề làm cốm dẹp truyền thống của người Khmer (Sóc Trăng)

Cốm dẹp là một món ăn đặc sản nổi tiếng của vùng Sóc Trăng, không chỉ là biểu tượng văn hóa đặc trưng của địa phương mà còn gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ. Món ăn này không chỉ được sử dụng trong những bữa ăn hàng ngày mà còn là một phần không thể thiếu trong các dịp lễ quan trọng, đặc biệt là Lễ cúng Trăng - một sự kiện tôn giáo quan trọng của người Khmer.
Top