banner 728x90

Cải lương - nghệ thuật dân gian ở Nam bộ

18/04/2024 Lượt xem: 2536

Trải qua biết bao trầm của lịch sử, hạt giống cải lương đã được sinh ra và phát triển mạnh mẽ trên mảnh đất Nam Bộ. Ra đời sau Chèo và Hát Bội, phát triển từ nhạc Tài tử biến thành “ca ra bộ”, nghệ thuật cải lương đã dần dần phát triển và chinh phục đông đảo tầng lớp nhân dân, nó do người Việt sáng tạo trên nước Việt cho người Việt, được cha truyền con nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, đã có nhiều tác phẩm để đời đến ngày nay.

Phong cách diễn xuất của nghệ thuật Cải lương

Có thể xem cải lương ra đời vào những thập niên của đầu thế kỷ XX ở vùng đất miền Tây Nam Bộ. Cải lương xuất phát từ thể loại đờn ca tài tử mà ra. Vào cuối thế kỷ 19, đờn ca tài tử đã phát triển hoàn chỉnh từ đờn, ca, bài bản. Người ca diễn tả tâm trạng của bài hát bằng những điệu bộ, gọi là lối ca ra bộ, là hiện tượng tự phát theo từng bài bản riêng một. Sau một ngày làm việc căng thẳng, được ngồi cùng nhau hát đờn ca, xua đi cái mệt mỏi của cả ngày làm việc đó mới chính là giá trị của đờn ca tài tử mà không thể loại nhạc nào hay hình thức nghệ thuật nào khác có được.

Đờn ca tài tử có tính thính phòng, được biểu diễn trong một không gian vừa đủ, dù ban ngày hay ban đêm, mọi người cùng nhau thưởng thức tiếng đờn, lời ca giản dị, mộc mạc mà không cần đến bất kỳ sự trợ giúp của thiết bị âm thanh nào. Cải lương mang tính sân khấu. Tức là, nó được trình diễn trong không gian mở, với phông màn, cảnh trí, hệ thống âm thanh hội trường ánh sáng, diễn viên hóa trang,… bắt mắt, thu hút ánh nhìn của khán giả. Không chỉ giúp họ thỏa mãn về thính giác mà Cải lương còn làm thỏa mãn thị giác của những người yêu âm nhạc.

Từ đó loại hình ca kịch sân khấu này mang tên “cải lương”. “Ban” hay “đoàn cải lương” là tên bảng hiệu, còn dân gian gọi là “gánh cải lương”, do xưa đi diễn ở vùng sâu vùng xa không có xe cộ, đào kép nhân viên đều phải gánh đạo cụ, y trang tới dựng rạp, treo màn nên gọi là “gánh hát”. Từ sự ra đời của cải lương ở miền Nam, nó phát triển được khắp các miền đất nước. Nơi nào cũng tiếp nhận dễ dàng. Khác với một số thể loại như chèo chỉ ở Bắc, cung đình chỉ ở Huế, ca kịch bài chòi chỉ ở Nam Trung Bộ…

Ca ra bộ được đông đảo quần chúng hâm mộ, dần dần phát triển và con đường phát triển tất yếu của nó là đi vào nghệ thuật sân khấu, biến hát bội thành “hát bội pha cải lương” rồi tiến lên chuyển mình thành một loại hình riêng.

Âm nhạc cải lương cũng không kém phần phong phú, nào là nhạc dân ca, nhạc truyền thống và sau này có thêm tân nhạc. Lúc này, làn điệu vọng cổ không những đóng vai trò chủ chốt mà nó còn là linh hồn của cải lương. Bên cạnh đó, nhạc cụ cải lương cũng đóng một vai trò đáng kể. Mặc dù chỉ sử dụng nhạc cụ truyền thống (đàn cò, đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tranh, trống cơm…). Dàn nhạc trong cải lương bắt nguồn từ dàn nhạc lễ trong cung đình, sau đó do tính chất của nhạc lễ dần thay đổi từ trang nghiêm sang chất đời thường, gắn với tâm tư người lao động. Vì thế tên gọi ban nhạc tài tử đã được thay thế cho ban nhạc lễ.

Đề tài và cốt truyện ngay từ đầu đều khai thác các truyện Nôm của ta như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên hoặc các câu truyện trong khung cảnh xã hội Việt Nam. Sau đó chiều theo thị hiếu của khán giả, sân khấu cải lương cũng có một số vở soạn theo các truyện, tích của Trung Quốc hoặc dựng lên những cốt truyện với nhân vật, địa danh có vẻ của Trung Quốc nhưng những cảnh ngộ, tình tiết thì của xã hội Việt Nam. (Mộc Quế Anh, Phụng Nghi Đình…. Sau đó là Tô Ánh Nguyệt, Đời cô Lựu…). Diễn xuất của diễn viên thường diễn một cách tự nhiên, nhất là khi diễn về đề tài xã hội thì diễn viên diễn như kịch nói. Cải lương cũng có múa và diễn võ nhưng nhìn chung là những động tác trong sinh hoạt để hài hòa với lời ca chứ không phải là hình thức bắt buộc. Y phục trong các vở về đề tài xã hội, diễn viên ăn mặc như nhân vật ngoài đời. Trong các vở diễn về đề tài lịch sử dân tộc… thì y phục của diễn viên chỉ mới có tính ước lệ chứ chưa đúng với hiện thực.

Trang phục diễn ngày xưa

Nhạc cải lương là một loại nhạc sân khấu, được phát triển dựa trên phong trào ca nhạc tài tử. Loại nhạc này bắt nguồn từ nền ca nhạc dân gian lâu đời của nước ta. Nó nằm trong kho tàng văn hóa dân tộc, và đồng thời phát triển với những cuộc di dân về phương Nam của ông cha ta. Cũng những cây đàn ấy khi vào phương Nam thì trở nên linh động với những màu sắc mới lạ và biến thành một loại hình nghệ thuật độc đáo. Âm nhạc cải lương hơi nhẹ nhàng vì dùng đàn dây tơ và dây kim, không có kèn trống như hát bội. Cải lương có những làn điệu bài bản cố định, từ đó nhạc sĩ thiết kế để phù hợp với tâm trạng từng nhân vật. Yếu tố hàng đầu cho một giọng ca cải lương hay chính là sức mạnh truyền cảm.

Tóm lại, cải lương là một nghệ thuật dân gian xuất phát từ miền Nam và lần lần được cả ba miền ưa thích. Cải lương có khả năng thực hiện những đề tài mới do tính cách động. Cải lương dễ chấp nhận những phong cách biểu diễn mới, du nhập cách múa của hát Tiều, hát Quảng kể cả những làn điệu của phương Tây, Trung Quốc… phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của người Nam bộ. Từ nhạc cổ và nhạc lễ chuyển thành nhạc tài tử, từ nhạc tài tử tiến lên hình thức ca ra bộ rồi chuyển thành loại hình nghệ thuật sân khấu, có kịch bản văn học, diễn viên, nhạc công, thiết kế mỹ thuật, quá trình hình thành sân khấu cải lương là quá trình kế thừa và phát triển truyền thống âm nhạc dân tộc và tiếp thu văn hóa nước ngoài.

Ban Nghiên cứu lịch sử 

Tags:

Bài viết khác

Lễ hội Katê lung linh sắc màu văn hóa Chăm

Trong tín ngưỡng dân gian của đồng bào dân tộc Chăm có nhiều lễ hội, với những nghi thức tín ngưỡng độc đáo, như: Lễ Cầu đảo với nghi lễ truyền thống mở cửa biển, gợi những ký ức về biển của người Chăm; hay Lễ hội Ka tê đã được Nhà nước công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia… Không gian lễ hội của cộng đồng người Chăm luôn ngập tràn sắc màu văn hóa, từ trang phục, nhạc cụ, điệu múa truyền thống… đến tín ngưỡng dân gian.

Ngôi chùa Khmer xây bằng đá granit nằm ở độ cao 45m, được ví như chốn ‘bồng lai tiên cảnh’ giữa núi rừng

Đây là ngôi chùa có lối kiến trúc chứa đựng nhiều huyền tích của đồng bào dân tộc Khmer.

Sống động di sản văn hóa Óc Eo tại Bảo tàng Bà Rịa Vũng Tàu dịp lễ 2/9

Gần 400 hình ảnh, hiện vật, di sản văn hóa Óc Eo đang được trưng bày sống động tại Bảo tàng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, thể hiện góc nhìn khái quát, giá trị quý về một trong ba nền văn hóa cổ tiêu biểu của Việt Nam.

Nghề đan võng ngô đồng được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

Nghề thủ công truyền thống đan võng ngô đồng Cù Lao Chàm (đảo Cù Lao Chàm, xã Tân Hiệp, thành phố Hội An, Quảng Nam) được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Một di tích tại Bà Rịa - Vũng Tàu được xếp hạng cấp quốc gia

Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức công bố quyết định xếp hạng Di tích Quốc gia đối với "Di tích lịch sử địa điểm trận chiến ngày 6.6.1969 tại Bình Ba" trên địa bàn.

Tháp Bình Sơn - Ngọn tháp bằng đất nung cao nhất còn lại tới ngày nay

Kiến trúc tháp Bình Sơn mang dấu ấn độc đáo, dù được xây dựng từ thời Lý-Trần vẫn còn giữ được hầu như nguyên vẹn, và là ngọn tháp cao nhất được xây dựng bằng đất nung còn lại cho tới ngày nay.

Những ngôi chùa nổi tiếng tại Việt Nam, điểm đến tâm linh của khách thập phương

Những ngôi chùa tại Việt Nam không chỉ là nơi thờ cúng linh thiêng, giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân mà còn là những công trình kiến trúc tuyệt đẹp, thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới. Dưới đây là những ngôi chùa nổi tiếng tại Việt Nam, mỗi ngôi chùa đều mang một nét đặc trưng riêng biệt và lịch sử lâu đời.

Nghề dệt của người Lự ở Bản Hon

Từ bao đời nay, người Lự ở xã Bản Hon, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu coi nghề dệt thổ cẩm truyền thống là thước đo đánh giá sự khéo léo, đảm đang của người phụ nữ. Vì thế khung cửi dệt thổ cẩm truyền thống là vật dụng quan trọng không thể thiếu trong gia đình người Lự.
Top