banner 728x90

Cải lương - nghệ thuật dân gian ở Nam bộ

18/04/2024 Lượt xem: 4153

Trải qua biết bao trầm của lịch sử, hạt giống cải lương đã được sinh ra và phát triển mạnh mẽ trên mảnh đất Nam Bộ. Ra đời sau Chèo và Hát Bội, phát triển từ nhạc Tài tử biến thành “ca ra bộ”, nghệ thuật cải lương đã dần dần phát triển và chinh phục đông đảo tầng lớp nhân dân, nó do người Việt sáng tạo trên nước Việt cho người Việt, được cha truyền con nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, đã có nhiều tác phẩm để đời đến ngày nay.

Phong cách diễn xuất của nghệ thuật Cải lương

Có thể xem cải lương ra đời vào những thập niên của đầu thế kỷ XX ở vùng đất miền Tây Nam Bộ. Cải lương xuất phát từ thể loại đờn ca tài tử mà ra. Vào cuối thế kỷ 19, đờn ca tài tử đã phát triển hoàn chỉnh từ đờn, ca, bài bản. Người ca diễn tả tâm trạng của bài hát bằng những điệu bộ, gọi là lối ca ra bộ, là hiện tượng tự phát theo từng bài bản riêng một. Sau một ngày làm việc căng thẳng, được ngồi cùng nhau hát đờn ca, xua đi cái mệt mỏi của cả ngày làm việc đó mới chính là giá trị của đờn ca tài tử mà không thể loại nhạc nào hay hình thức nghệ thuật nào khác có được.

Đờn ca tài tử có tính thính phòng, được biểu diễn trong một không gian vừa đủ, dù ban ngày hay ban đêm, mọi người cùng nhau thưởng thức tiếng đờn, lời ca giản dị, mộc mạc mà không cần đến bất kỳ sự trợ giúp của thiết bị âm thanh nào. Cải lương mang tính sân khấu. Tức là, nó được trình diễn trong không gian mở, với phông màn, cảnh trí, hệ thống âm thanh hội trường ánh sáng, diễn viên hóa trang,… bắt mắt, thu hút ánh nhìn của khán giả. Không chỉ giúp họ thỏa mãn về thính giác mà Cải lương còn làm thỏa mãn thị giác của những người yêu âm nhạc.

Từ đó loại hình ca kịch sân khấu này mang tên “cải lương”. “Ban” hay “đoàn cải lương” là tên bảng hiệu, còn dân gian gọi là “gánh cải lương”, do xưa đi diễn ở vùng sâu vùng xa không có xe cộ, đào kép nhân viên đều phải gánh đạo cụ, y trang tới dựng rạp, treo màn nên gọi là “gánh hát”. Từ sự ra đời của cải lương ở miền Nam, nó phát triển được khắp các miền đất nước. Nơi nào cũng tiếp nhận dễ dàng. Khác với một số thể loại như chèo chỉ ở Bắc, cung đình chỉ ở Huế, ca kịch bài chòi chỉ ở Nam Trung Bộ…

Ca ra bộ được đông đảo quần chúng hâm mộ, dần dần phát triển và con đường phát triển tất yếu của nó là đi vào nghệ thuật sân khấu, biến hát bội thành “hát bội pha cải lương” rồi tiến lên chuyển mình thành một loại hình riêng.

Âm nhạc cải lương cũng không kém phần phong phú, nào là nhạc dân ca, nhạc truyền thống và sau này có thêm tân nhạc. Lúc này, làn điệu vọng cổ không những đóng vai trò chủ chốt mà nó còn là linh hồn của cải lương. Bên cạnh đó, nhạc cụ cải lương cũng đóng một vai trò đáng kể. Mặc dù chỉ sử dụng nhạc cụ truyền thống (đàn cò, đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tranh, trống cơm…). Dàn nhạc trong cải lương bắt nguồn từ dàn nhạc lễ trong cung đình, sau đó do tính chất của nhạc lễ dần thay đổi từ trang nghiêm sang chất đời thường, gắn với tâm tư người lao động. Vì thế tên gọi ban nhạc tài tử đã được thay thế cho ban nhạc lễ.

Đề tài và cốt truyện ngay từ đầu đều khai thác các truyện Nôm của ta như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên hoặc các câu truyện trong khung cảnh xã hội Việt Nam. Sau đó chiều theo thị hiếu của khán giả, sân khấu cải lương cũng có một số vở soạn theo các truyện, tích của Trung Quốc hoặc dựng lên những cốt truyện với nhân vật, địa danh có vẻ của Trung Quốc nhưng những cảnh ngộ, tình tiết thì của xã hội Việt Nam. (Mộc Quế Anh, Phụng Nghi Đình…. Sau đó là Tô Ánh Nguyệt, Đời cô Lựu…). Diễn xuất của diễn viên thường diễn một cách tự nhiên, nhất là khi diễn về đề tài xã hội thì diễn viên diễn như kịch nói. Cải lương cũng có múa và diễn võ nhưng nhìn chung là những động tác trong sinh hoạt để hài hòa với lời ca chứ không phải là hình thức bắt buộc. Y phục trong các vở về đề tài xã hội, diễn viên ăn mặc như nhân vật ngoài đời. Trong các vở diễn về đề tài lịch sử dân tộc… thì y phục của diễn viên chỉ mới có tính ước lệ chứ chưa đúng với hiện thực.

Trang phục diễn ngày xưa

Nhạc cải lương là một loại nhạc sân khấu, được phát triển dựa trên phong trào ca nhạc tài tử. Loại nhạc này bắt nguồn từ nền ca nhạc dân gian lâu đời của nước ta. Nó nằm trong kho tàng văn hóa dân tộc, và đồng thời phát triển với những cuộc di dân về phương Nam của ông cha ta. Cũng những cây đàn ấy khi vào phương Nam thì trở nên linh động với những màu sắc mới lạ và biến thành một loại hình nghệ thuật độc đáo. Âm nhạc cải lương hơi nhẹ nhàng vì dùng đàn dây tơ và dây kim, không có kèn trống như hát bội. Cải lương có những làn điệu bài bản cố định, từ đó nhạc sĩ thiết kế để phù hợp với tâm trạng từng nhân vật. Yếu tố hàng đầu cho một giọng ca cải lương hay chính là sức mạnh truyền cảm.

Tóm lại, cải lương là một nghệ thuật dân gian xuất phát từ miền Nam và lần lần được cả ba miền ưa thích. Cải lương có khả năng thực hiện những đề tài mới do tính cách động. Cải lương dễ chấp nhận những phong cách biểu diễn mới, du nhập cách múa của hát Tiều, hát Quảng kể cả những làn điệu của phương Tây, Trung Quốc… phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của người Nam bộ. Từ nhạc cổ và nhạc lễ chuyển thành nhạc tài tử, từ nhạc tài tử tiến lên hình thức ca ra bộ rồi chuyển thành loại hình nghệ thuật sân khấu, có kịch bản văn học, diễn viên, nhạc công, thiết kế mỹ thuật, quá trình hình thành sân khấu cải lương là quá trình kế thừa và phát triển truyền thống âm nhạc dân tộc và tiếp thu văn hóa nước ngoài.

Ban Nghiên cứu lịch sử 

Tags:

Bài viết khác

Khám phá khu di tích lịch sử văn hóa ngàn năm tuổi ở Bà Rịa – Vũng Tàu

Giữa miền đất Long Điền (Bà Rịa – Vũng Tàu) chan hòa nắng gió, khu di tích lịch sử – văn hóa Bàu Thành sừng sững như một nhân chứng lặng lẽ hàng nghìn năm lịch sử. Nơi đây, từng lớp dấu tích cổ xưa hòa quyện cùng nhịp sống hiện đại, tạo thành điểm đến độc đáo vừa gợi trí tò mò vừa làm dậy lên lòng tự hào về một vùng biên viễn oai hùng.

Lễ hội chùa Keo và 6 nghi thức độc đáo: Di sản văn hóa tâm linh Việt Nam

Nằm yên bình bên dòng sông Hồng thơ mộng, chùa Keo – tên chữ là Thần Quang Tự – tọa lạc tại xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Đây là một trong những ngôi chùa cổ kính, có giá trị lịch sử và nghệ thuật bậc nhất ở Việt Nam.

Làng nghề bánh tráng Trảng Bàng – Di sản văn hóa của người dân Nam Bộ

Nhắc đến Tây Ninh, người ta thường nghĩ ngay đến món bánh canh Trảng Bàng trứ danh. Thế nhưng, mảnh đất nắng gió này còn ẩn chứa một di sản văn hóa lâu đời: làng nghề bánh tráng phơi sương Trảng Bàng – nơi kết tinh tinh hoa ẩm thực và tâm hồn người dân Nam Bộ.

Người mở cõi – Vị khai quốc công thần đất Đồng Nai

Cách đây 327 năm, vào mùa xuân năm 1698, theo lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh dẫn binh thuyền xuôi dòng sông Sài Gòn rồi ngược dòng Đồng Nai, đặt chân đến vùng Cù Lao Phố. Với tầm nhìn chiến lược và phẩm chất của một nhà kiến thiết, ông đã nhanh chóng thiết lập dinh Trấn Biên, ổn định trật tự, khai sinh hệ thống hành chính cho vùng đất hoang hóa rộng lớn, mở đầu cho quá trình xác lập chủ quyền của Đàng Trong trên phần đất Nam Bộ ngày nay.

Lăng Văn Sơn: Nét chạm của di sản trong đô thị hiện đại

Giữa nhịp phát triển sôi động của vùng Tây Hà Nội, Lăng Văn Sơn – di tích lịch sử quốc gia tại xã Tân Hội, huyện Đan Phượng – vẫn là biểu tượng văn hóa, điểm tựa tâm linh và niềm tự hào của người dân địa phương. Nơi đây không chỉ gắn với vị tướng Văn Dĩ Thành – người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV – mà còn lưu giữ những giá trị trường tồn của vùng đất Tổng Gối anh hùng.

Hình tượng Dê trong văn hóa thế giới và nghệ thuật truyền thống Việt Nam.

Hình tượng con dê là một biểu tượng phổ biến trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, với ý nghĩa đa dạng từ tôn giáo, triết lý đến nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian. Tại Việt Nam, con dê không chỉ là động vật quen thuộc trong đời sống nông nghiệp mà còn giữ vị trí biểu tượng trong nghệ thuật tạo hình và kiến trúc truyền thống.

Bảo tàng – Thư viện Bà Rịa - Vũng Tàu: Hành trình đưa di sản văn hoá đến gần hơn với du khách

Không chỉ lưu giữ ký ức, di sản văn hóa còn là nhịp cầu kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa người dân và quê hương, giữa du khách và những câu chuyện lịch sử tưởng như đã lùi xa. Ở thành phố du lịch biển Vũng Tàu – hành trình ấy đang được tiếp nối sáng tạo và nhân văn qua nỗ lực không ngừng của Bảo tàng – Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Ý nghĩa biểu tượng của tượng Phật Bà Quan Âm nghìn tay nghìn mắt - Di sản vô giá của dân tộc

Sự sùng bái Bồ tát Quan Âm có liên quan mật thiết đến sự phát triển của Tịnh độ tông và Mật tông, cụ thể là tư tưởng “Tịnh Mật hợp nhất”. Chính tại thời điểm giao thoa của hai tông này mà sức sáng tạo các hình tượng Bồ tát Quan Âm ngày càng trở nên phong phú, đa dạng.
Top