banner 728x90

Tỉnh giác với tham ái

17/06/2025 Lượt xem: 2674

Trong vòng luân hồi sinh tử vô tận, ái được xem là sợi dây vô hình trói buộc chúng sanh vào đau khổ. Yêu thương vốn dĩ là điều tốt đẹp, nhưng nếu không có trí tuệ soi đường, nó lại dễ dàng biến thành ái nhiễm, gây ra muôn vàn khổ lụy khi đối diện với hiện thực biến hoại, vô thường.

Ảnh minh họa.

“Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ có một người Phạm chí, độc nhất chỉ có một đứa con, trong lòng hết sức ái niệm, tâm ý khắng khít, chiều chuộng, nhìn hoài không chán. Bỗng nhiên đứa con mạng chung. Sau khi đứa con mạng chung, người Phạm chí ấy ưu sầu, không thể ăn uống được, không mặc áo xiêm, cũng không bôi hương; chỉ biết đi ra bãi tha ma mà khóc, nhớ tưởng chỗ con nằm.

Rồi Phạm chí lang thang khắp nơi, đi đến chỗ Phật, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên. Thế Tôn hỏi:

- Ông nay vì sao các căn không trụ nơi tâm mình?

Phạm chí đáp rằng:

- Tôi làm sao các căn có thể an trụ nơi tâm mình được? Vì sao vậy? Chỉ có một đứa con độc nhất, trong lòng hết sức ái niệm, tâm ý khắng khít, chiều chuộng, nhìn hoài không chán. Bỗng nhiên nó mạng chung. Sau khi mạng chung, tôi ưu sầu không thể ăn uống được, không mặc áo xiêm, cũng không bôi hương; chỉ biết đi ra bãi tha ma mà khóc, nhớ tưởng chỗ con nằm.

Thế Tôn nói:

- Thật vậy, Phạm chí! Thật vậy, Phạm chí! Nếu khi ái sanh thì phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, ảo não.

Phạm chí nói:

- Cù-đàm, sao lại nói khi ái sanh thì cũng phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, ảo não? Cù-đàm nên biết, khi ái sanh thì hỷ cũng sanh, tâm hoan lạc.

Thế Tôn đến ba lần nói như vậy:

- Thật vậy, Phạm chí! Thật vậy, Phạm chí! Khi ái sanh thì phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, ảo não.

Phạm chí cũng ba lần hỏi rằng:

- Cù-đàm, sao lại nói khi ái sanh thì cũng phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, ảo não? Cù-đàm nên biết, khi ái sanh thì hỷ cũng sanh, tâm hoan lạc.

Lúc bấy giờ Phạm chí nghe những lời Phật nói không cho là phải, mà chỉ bác bỏ, rồi rời chỗ ngồi đứng dậy, lắc đầu bỏ đi” (Kinh Trung A-hàm, phẩm Lệ, kinh Ái sinh, số 216).

Ảnh minh họa.

Ái, tiếng Phạn là Kama, tức là sự tham ái, khát ái. Ái chính là một chi phần, móc xích quan trọng nắm giữ cơ cấu vận hành của vòng tròn mười hai nhân duyên. Từ ái sanh ra thủ, từ thủ sanh ra hữu,… cứ lặp đi lặp lại như thế cho đến khi chúng ta phá hủy được mắt xích ái thì chấm dứt khỏi sanh tử luân hồi.

Đức Phật đã dạy khi ái sanh thì sầu bi, khổ não, phiền muộn cũng theo đó mà sanh. Nhưng chúng sanh lại thấy ái mang đến niềm vui, hân hoan và sung sướng. Điều này chúng ta đã thấy rõ ở đoạn hội thoại giữa Đức Phật với Phạm chí. Mặc dù nhiều lần khuyên răn, nhắc nhở nhưng Phạm chí vẫn một mực bác bỏ. Vì sao? Bởi vì khi chúng ta đạt được những thứ mình mong muốn thì tâm trạng vui mừng, hạnh phúc và chỉ muốn giữ mãi bên cạnh. Nhưng đó chỉ là niềm vui, hạnh phúc bị giới hạn trong cảm xúc của con người. Bản chất của các pháp là vô thường, sanh diệt, thế nên không có gì là tồn tại mãi. Vì vậy, khi các pháp hoại diệt thì phiền muộn, khổ đau cũng theo đó mà sanh ra. Cũng như tình cảnh của Phạm chí, tình phụ tử thiêng liêng (ái) vô tình đã trở thành sợi xích trói buộc tâm hồn người cha khi mất đi người con yêu quý.

Trong giáo pháp Tứ đế, Đức Phật cũng dạy: “Ái biệt ly khổ”. Đây là một trong tám nỗi khổ ở đời mà ai cũng phải chịu. Bởi vì ai trong chúng ta cũng có gia đình, người thân và người mình yêu quý mà phải xa lìa họ là chuyện hiển nhiên. Các pháp trên cuộc đời này tồn tại do nhân duyên, đủ duyên thì tụ hết duyên thì tan. “Cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không, cái này sanh vì cái kia sanh, cái này diệt vì cái kia diệt”, một bài kệ tưởng chừng rất đơn giản và được nghe rất nhiều lần nhưng để thấy được như vậy thì phải là người có trí tuệ như Đức Phật mới thấu rõ được mối nhân duyên tụ - tan của các pháp.

Ái là hạt giống sanh tử, là sợi dây trói buộc chúng sanh trong biển khổ trầm luân. Cái mà người đời tham ái đó chính là năm dục, gồm tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Sâu xa hơn là luyến ái, chấp thủ tự ngã. Bất cứ thứ gì nếu chúng ta tham đắm, vướng mắc liền bị sợi dây ái trói buộc. Tuy nhiên năm dục cũng có vị ngọt của nó, nếu không có những vị ngọt này, có lẽ chúng ta sẽ không say đắm, bị cám dỗ như thế. Nhưng đằng sau những vị ngọt ấy là lưỡi dao sắc bén chờ đợi để trừng phạt những kẻ đắm chìm vào tham ái, phải gánh lấy những hậu quả cay đắng, tang thương.

Đối chiếu sang góc nhìn của khoa học, khi con người tham muốn một điều gì đó (ái), trong não bộ tiết ra một chất gọi là Dopamine - một chất dẫn truyền thần kinh tạo ra cảm giác hưng phấn, kích thích chúng ta hành động theo sự mong muốn của mình. Nhưng khi đạt được mục tiêu rồi thì Dopamine tự động giảm xuống, khiến cho chúng ta cảm thấy nhàm chán và vô vị.

Hiện tượng này đã lý giải vì sao những thứ mới mẻ luôn hấp dẫn, như việc mong muốn mua được một chiếc xe đẹp, nhưng sau một thời gian lại thích chiếc xe khác đẹp hơn. Vòng xoay ham muốn cứ thế lặp đi lặp lại, và chúng ta đã trở thành nạn nhân của ái dục và người bạn trung tính Dopamine. Vô hình trung, Dopamine đã giúp cho tham ái trói buộc chúng ta vào năm dục dễ dàng và nhanh hơn.

Mặt khác, nếu như đối tượng tham ái không phải là năm dục, mà là mong muốn thâm nhập giáo pháp hay sự an lạc của thiền định thì Dopamine chính là người bạn giúp đỡ cho chúng ta rất tốt trên con đường tu tập. Vậy điều quan trọng ở đây chính là chúng ta cần phải khéo giác sáng để tham ái không thể len lỏi vào trong tâm.

Tuy nhiên, chúng ta có thể chuyển hóa tâm ái thành yêu thương rộng lớn. Thay vì tham luyến năm dục, chúng ta có thể chuyển hóa năng lượng ái nhiễm sang lòng từ bi vô nhiễm (vô duyên từ). Từ bi cũng là tình thương nhưng đặt trên nền tảng trí tuệ, sáng suốt, không có sự đối đãi giữa ta và người thì tình thương ấy không còn hạn cuộc trong các mối quan hệ nữa, mà rộng khắp với một tâm nguyện mong muốn cho chúng sanh được an vui, giải thoát khỏi biển khổ sanh tử. Và điều kiện tiên quyết để thực hiện được điều này là phải sáng lại tự tâm. Chỉ có tâm trí sáng suốt với vô ngã hiện tiền thì nhiễm ái tự tiêu tan, từ tâm vô lượng. Ví như hình ảnh mặt trời lên cao thì sương mù tự tan biến.

Đức Phật cũng dạy chúng ta phải thường xuyên tỉnh giác khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, thấy biết rõ ràng nhưng không dính mắc thì chúng ta không bị lôi kéo bởi sự hấp dẫn của dục lạc thế gian.

Ngài Trần Thái Tông, một vị vua thiền sư cũng thấy sự nguy hại của việc bất giác, lao theo sáu trần:

“Trời đất nấu nung vạn tượng thành

Xưa nay không mống cũng không manh

Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm

Liền trái không sanh nhận có sanh.

Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị

Mắt mờ chúng sắc, tiếng mê tai

Lang thang làm khách phong trần mãi

Ngày cách quê hương muôn dặm trình.

(Khóa hư lục giảng giải, Bốn núi, Núi thứ nhất, HT.Thích Thanh Từ dịch)

Xưa nay tất cả chúng sanh đều từ thể vô niệm, không chút manh mối nhưng chợt thoáng quên, bất giác liền vịn theo sáu trần đuổi bắt các âm thanh, sắc tướng, hương vị. Từ đó mà chúng ta lang thang trong cõi trần thế, cất bước tha phương, đùa vui với những hình ảnh ảo mộng như việc liếm mật ngọt trên lưỡi dao. Cứ rảo bước chân theo những trò vui như thế, cho đến một khi ngoái lại thì không thấy quê nhà ở đâu. Phải chăng chúng ta đã đi rất xa, không còn biết đường về? Đến lúc này thì mắt mờ, chân yếu, tay run làm sao có thể trở về quê nhà được nữa.

Hình ảnh quê nhà chính là Niết-bàn mà Đức Phật hằng mong hàng đệ tử trở về. Chỉ cần giữa đây, trong mớ hỗn độn đầy rẫy dục lạc này, chúng ta giác sáng trở lại, không để cho các vọng niệm, tham ái chi phối là đã làm chủ được các căn, không còn chạy theo sáu trần và năm dục nữa.

Tóm lại, tình thương là một thứ rất quý giá trên cuộc đời này. Nhưng để cho tình thương ấy có giá trị và mang lại lợi ích cho mình và người thì chúng ta phải có nhận thức đúng đắn, trí tuệ sáng suốt, yêu thương khắp tất cả với tâm thái tỉnh sáng mới không bị nhấn chìm trong biển ái thương đau.

Nguồn: Báo Giác Ngộ

 

Tags:

Bài viết khác

Hiếu là cội nguồn của đạo làm người

Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, hiếu không chỉ là một đức tính căn bản mà còn là nền tảng để xây dựng nhân cách, gia đình và xã hội. Vào thế kỷ II, khi Phật giáo du nhập vào Giao Châu, Mâu Tử đã soạn Lý hoặc luận để giải trừ nghi hoặc với giới Nho sĩ và Đạo gia về Phật giáo.

Tình và Trí

Tình cảm và lý trí khó có thể tồn tại đồng thời một cách trọn vẹn, viên mãn. Những người làm đầu ngành kinh tế, lãnh đạo hoặc khoa học bận để tâm trí và thời gian vào chuyên môn cho nên thường phải hy sinh hạnh phúc riêng gia đình.

Kỳ Lân – Linh Vật Thiêng Liêng Trong Phật Giáo

Trong văn hóa Á Đông, kỳ lân là một trong tứ linh Long – Lân – Quy – Phụng, tượng trưng cho điềm lành, trí tuệ và sự thịnh vượng. Riêng trong Phật giáo, kỳ lân được tôn kính không chỉ bởi hình ảnh huyền thoại mà còn bởi ý nghĩa tâm linh sâu sắc, biểu trưng cho lòng từ bi, chính nghĩa và trí huệ.

Công năng của Thần Chú Vãng Sanh

Trong kho tàng tu tập của Phật giáo Tịnh độ, bên cạnh pháp môn niệm Phật “Nam Mô A Di Đà Phật” được xem là cốt lõi, còn có một mật ngôn được trì tụng phổ biến trong các nghi lễ cầu siêu, cầu vãng sanh: đó là Thần Chú Vãng Sanh.

Ý nghĩa sâu xa của thần chú Om Mani Padme Hum

OM MANI PADME HUM - sáu âm thanh ngắn ngủi - chính là tinh hoa của 84.000 pháp môn, là cốt tủy của con đường Phật dạy. Trì tụng thần chú này, tức là gieo hạt giống bi mẫn và trí tuệ trong tâm mình. Hạt giống ấy, khi được tưới tẩm bằng niềm tin, sự tỉnh giác và lòng từ bi, nhất định sẽ nảy nở thành cây giác ngộ, che mát cho chính ta và cho tất cả chúng sinh.

Phật giáo và các giá trị nhân bản

Trước khi Ðức Phật xuất thế, có 2 phương pháp tu tập thịnh hành ở Ấn Độ. 1) Tu sĩ Bà-la-môn tìm kiếm sự cứu rỗi và giải thoát bằng cách áp dụng những cuộc tế lễ đẫm máu, 2) Một số người thay vì tế lễ họ tu theo phương pháp khổ hạnh ép xác với hy vọng có được kết quả trong tương lai. Ðức Phật xem hai cách thực hành trên là không hoàn thiện, không đem lại lợi ích cho người thực hành.

8 đặc tính của hoa sen trong Phật giáo

Nói đến Phật giáo, người ta thường liên tưởng đến một loài hoa bình dị, thanh cao và thoát tục sống trong ao hồ: hoa Sen - một trong tám biểu tượng của Phật giáo. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa lấy hoa Sen làm đề kinh.

Đức Phật và những di huấn sau cùng

Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn. Nhưng Ngài giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, chịu đựng cơn đau ấy, không một chút ta thán.
Top