banner 728x90

Thờ thành Hoàng làng đã trở thành phong tục của nhân dân Việt Nam

16/06/2024 Lượt xem: 3297

      Trước thế kỷ XV, có lẽ ở nông thôn các làng xã vẫn thờ phụng các Thổ thần là chính, tuy nhiên, đây đó ta còn có những tư liệu về thờ phụng Thành hoàng ở làng xã từ những thế kỷ trước đó. Trước nhất, với tư liệu biết được đến nay tấm bia có ghi hai chữ “Thành hoàng” đầu tiên tại làng xã Trường Sơn, huyện Thủy Nguyên, Kiến An, ghi ông tù trưởng họ Lại, húy Bốn, vợ họ Đào, sinh con trai là tướng tài trong kháng chiến chống Nguyên Mông, diệt ô Mã Nhi, sau được phong là Đương Cảnh Thành hoàng Trần Triều Phò mã để cúng Thượng phẩm đại liệu ban, quan Nội hầu, nội Quốc công, Thượng đẳng Phúc Đại Vương.

     Tuy nhiên, tấm bia này lại dựng vào thế kỷ XIX theo bài soạn của Nguyễn Bính vào năm 1572. Một tấm bia khác do Nguyễn Đình Tuấn, tiến sĩ 1481, dựng vào năm 1487 ở Gia Lương, Bắc Ninh về ngôi đền Trăn Tân, nói rõ thể thức rước thần trong hội làng.

Bàn thờ Thành Hoàng đền Ngọc Lũ (Hà Nam)

     Chúng ta còn có nguồn tư liệu gián tiếp khác là ngôi đình. Vào thời Trần, tư liệu lịch sử còn lại cho biết, các làng đã dựng các ngôi đình trạm để thờ Phật, nơi dừng chân nghĩ ngơi của các khách bộ hành. Năm 1231, Trần Thừa bắt các đình trạm dựng tượng thờ Phật. Năm 1474, nhà nước đã phải can thiệp vào việc thờ cúng ở đình của các tư nhân lập ra để thờ thần, đình có cả ruộng hậu. Như vậy, từ năm 1474, đình không cần nấp bóng thờ Phật nữa, cũng không còn thuần túy là đình trạm nữa, mà đã thờ các vị thần. Năm 1496, Lê Thánh Tông ra lệnh cho làng quản lý đình, và từ đó mở đầu cho một giai đoạn phát triển của hình thức thờ thần ở đình làng, đó là các Thành hoàng và tồn tại cho đến nay.

     Cũng từ thời nhà Lê trở đi, với sự thắng thế của Nho giáo, tầng lớp nho học ở làng xã ngày một đông đảo, đã nắm lấy quyền quản lý đình làng, nghi thức hóa việc thờ cúng theo tinh thần Nho giáo. Đặc biệt là từ thế kỷ XVI, với việc phong bằng sắc cho các Thành hoàng làng xã của các nhà nước phong kiến, một lần nữa nâng cấp và chính thức hóa việc thờ cúng này ở nông thôn.

     Thời Lê mạt, ở nông thôn đâu đâu cũng nô nức dựng đình miếu, tìm kiếm Thành hoàng thờ cúng vị phúc thần bảo trợ cho làng mình.

     Làng nào có những cổ tích lưu truyền thì được thu thập và hệ thống lại, có những danh nhân nào đều được khai thác để thành Thành hoàng. Nơi nào không có thì mượn hay chung Thành hoàng với làng khác.

     Diện mạo Thành hoàng lúc này (tức là vào thời Lê) ít nhất cũng gồm ba loại chính, đó là: Các thần sông nước (thần rắn, thần sông, thần biển); Thần đá, thần đất, thần núi; Thần có gốc gác thần nước, thần núi nhưng được lịch sử hóa, nhập vào hệ thống thần thời Hùng Vương, An Dương Vương, Hai Bà Trưng. Sách Bách thần thời Lê đã thống kê có 1.026 đình, đền ở 944 làng xã thờ Hùng Vương và các thần nhân, tướng lĩnh của vua Hùng.

     Như vậy, con đường tiếp thu và du nhập cái tên “Thành hoàng” của các thần bảo hộ các thành trì, đô thị của Trung Quốc có lẽ là qua việc các quan cai trị nhà Đường dựng ông thần bản địa Tô Lịch trở thành Thành hoàng của Đại La – Thăng Long và sau này vẫn được các triều đại phong kiến tự chủ tiếp tục phong tặng và thờ phụng. Từ Đại La – Thăng Long, nó được đưa về các làng xã và trở thành tước hiệu của các vị thần bảo hộ cho mỗi làng – Thành hoàng làng, một hiện tượng tín ngưỡng tiêu biểu của cộng đồng làng, trong khi đó ở Trung Quốc các thôn xã vẫn chỉ thờ các Thổ thần mà thôi.

     Tất nhiên, ở làng Việt Nam, từ các vị Thổ thần trở thành Thành hoàng đã trải qua nhiều biến đổi, vừa do sự phát triển nội tại của bản thân làng xã, do giao lưu ảnh hưởng và nhất là do tác động của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền theo hướng phong kiến hóa, nho giáo hóa thờ cúng Thành hoàng ở các làng với ước muốn ngày một can thiệp và nắm lấy hệ thống thần linh và tín ngưỡng này để thao túng cấp hành chính cơ sở là làng xã. Điều này thể hiện rõ rệt hơn cả từ thời Lê và nhất là từ thời Nguyễn, qua việc hàng năm vua phong thần cho các Thành hoàng ở làng xã, quy định các thể thức tế tự, nghi lễ…

Ban Nghiên cứu Tôn giáo

 

Tags:

Bài viết khác

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Việt Nam

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều mang trong mình những nét văn hóa riêng. Văn hóa là cái gốc cho sự phát triển, phồn thịnh của một đất nước. Việt Nam là một dân tộc mang một nền văn hóa đậm đà bản sắc, đa dạng và phong phú. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam từ lâu đã đóng vai trò quan trọng đối với người dân Việt, văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tâm thức người dân.

Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội cổ truyền ở Việt Nam

Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong các lễ hội cổ truyền của Việt Nam, thể hiện bản sắc văn hóa, tâm linh và lòng tôn kính đối với các thế lực siêu nhiên, Tổ tiên, thần thánh. Bài viết tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật về tín ngưỡng dân gian trong các lễ hội cổ truyền của người Việt, đặc biệt, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu...

Ý nghĩa và mục đích của tục “Bán khoán con lên chùa”

Bán khoán con cho chùa là một tín ngưỡng dân gian, một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh. Có hai hình thức bán khoán con lên chùa: Bán khoán đến hết năm 12 tuổi rồi “chuộc” con ra, hoặc là bán khoán trọn đời. Từ xưa đến nay, nhiều gia đình quan niệm, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, khóc lóc không phải là do bị bệnh từ thân hoặc những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch).
Top