banner 728x90

Phong tục về lễ chạm ngõ và lễ xin dâu

07/07/2024 Lượt xem: 2575

Lễ chạm ngõ

Sau khi hai bên gia đình đã thỏa thuận và đi đến quyết định cưới, gả, nhà trai sẽ hẹn ngày với bên nhà gái để đem lễ vật trầu cau đến xin đính ước.

Theo phong tục thường phải chọn ngày tốt, tức là ngày âm dương bất tương, thì vợ chồng sau này ăn ở mới thuận hòa, để tiến hành lễ chạm ngõ. Trong ngày chạm ngõ, nhà trai sắm một lễ mọn cúng cáo tổ tiên để báo công việc trăm năm của con hay cháu. Sau đó nhà trai sửa một lễ đưa sang nhà gái. Lễ gồm một cơi trầu, têm cánh phượng, cau bổ tư bẻ cánh tiên. Nhà khá giả đưa cả buồng cau, mười mớ trầu, mứt sen, trà lạng đựng trong các quả sơn son thếp vàng. Có nơi ngoài cau trầu, trà rượu, mứt sen, nhà trai còn biếu bánh khảo thường ỉà bánh xu xê, bánh cốm…) và các loại bánh khác được ưa chuộng. Có thể lễ vật tuy ít, nhưng cốt ở tấm lòng thanh của nhà trai.

Đoạn người đi chạm ngõ gồm bà mối, bà mẹ, bà dì, bà cô của chú rể. Các cô gái chưa chồng trong họ tộc (nay thường là nam giới chưa vợ), đội các mâm quả hoặc bưng khay trầu đi trước, sau đó mới đến nam hoặc nữ thanh niên trong đó có chú rể.

Lễ được chia làm 2 phần: phần nhiều đặt lên bàn thờ và cha của cô dâu sẽ khấn vái để báo cáo với tổ tiến về ngày mà con hay cháu họ sắp lập gia đình. Phần còn lại đưa vê nhà ông cậu của cô gái, để lễ gia tiên bên ngoại.

Trước khi nhà trai ra về, nhà gái lại quả một phần.

Hiện nay, nhiều gia đình lý do nào đó như: đường xá đi lại từ nhà trai đến nhà gái quá xa, hay không có điều kiện nên người ta không làm riêng lễ chạm ngõ trong một ngày mà ghép vào làm chung vối lễ ăn hỏi.

Theo phong tục xưa, trong lễ chạm ngõ, nhà trai cho nhà gái một tờ hoa tiên, trong đó ghi tên tuổi ngày sinh tháng đẻ của chú rể để nhà gái xem xét và chấp nhận cho việc đính hôn.

Lễ chạm ngõ thực chất là lễ đính hôn, nên từ sau ngày đó nhà trai thường qua lại nhà gái để tỏ tình thân mật và bàn tính chuyện ăn hỏi sắp đến.

Lễ xin dâu

Hai bên gia đình nhà trai và nhà gái đã thông nhất ngày giờ đón dâu từ trước, do vậy trước giờ đón dâu, nhà trai có mấy người mang một cơi trầu, một chai rượu đến xin dâu và báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến đê nhà gái chuẩn bị đón tiếp.

Cơi trầu và chai rượu này được nhà gái đặt lên bàn thờ để làm lễ cáo tổ tiên biết trước, rồi hạ xuống đón khách đi đưa dâu.

Đại diện của nhà trai là mẹ chồng, hoặc cô, thím trong họ để đưa lễ này.

Ban Nghiên cứu Văn hóa

 

Tags:

Bài viết khác

Tết Thanh minh của người Dao

Tết Thanh minh không chỉ là dịp để tưởng nhớ tổ tiên mà còn là một nét văn hóa đặc sắc của nhiều dân tộc thiểu số, trong đó có người Dao Quần Chẹt ở các tỉnh Tuyên Quang, Hòa Bình, Vĩnh Phúc. Đây là dịp để con cháu sum vầy, thể hiện lòng thành kính với bậc tiền nhân, đồng thời lưu giữ những phong tục truyền thống.

Nét văn hóa trong trang phục dân tộc H’mông

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H’mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Cùng với tiếng nói, chữ viết, trang phục cũng là một trong những chi tiết quan trọng đầu tiên để nhận biết và phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Trang phục truyền thống không chỉ mang đậm bản sắc văn hóa, mà còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật, giá trị lịch sử của từng tộc người.

Những tấm dệt đan sắc núi rừng

Giữa sắc thẫm của đại ngàn Trường Sơn, đây đó nổi lên màu trắng của những dải mây vành khăn ở lưng chừng núi, màu đỏ của hoa gạo, hoa chuối, màu xanh của cây cỏ, màu vàng của lá úa rơi rụng, hay màu tím của hoàng hôn, màu của những tia nắng tán sắc cuối chân trời khi chiều muộn… Tất cả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mà người Tà Ôi ở không gian sống của chính tộc người mình

Những điều cần biết về tục thờ Linga và Yoni của người Chăm

Tục thờ Linga và Yoni có nguồn gốc từ cộng đồng người sống ở vùng lưu vực sông Ấn, thuộc chủng tộc Sumerian và Dravidan. Tín ngưỡng của họ gắn liền với thần thoại về thần mẹ và sự thờ cúng âm lực, coi sinh thực khí là nguồn gốc của mọi sự sáng tạo.

Các phong tục cần biết khi đến các làng bản của người dân tộc

Đồng bào các dân tộc Bắc Hà nói riêng và Lào Cai nói chung rất hiếu khách, nhưng khi du khách đến thăm làng, bản nên chú ý những điều kiêng kỵ và cần biết một vài phong tục, tập quán sinh hoạt để tiện ứng xử và giao tiếp.

Nhuộm răng đen - Phong tục lâu đời của người Việt

Nhuộm răng đen là một tục lệ lâu đời, xuất hiện từ thời Hùng Vương, tồn tại suốt mấy ngàn năm trong lịch sử văn hóa của người Việt. Đây vốn là phong tục cổ truyền không chỉ của cư dân người Việt mà còn tồn tại ở cộng đồng các dân tộc như Thái, Mường, Dao, Lự, Si La,…Trong cộng đồng người Việt, tục nhuộm răng đen chủ yếu chỉ phổ biến ở khu vực miền Bắc và miền Trung, còn ở miền Nam không thấy dấu vết của phong tục này.

Thala – nét đẹp văn hóa cộng đồng của người Khmer

Trên đường vào các phum, sóc của đồng bào Khmer Nam Bộ, đi khoảng một vài cây số, ta dễ dàng bắt gặp những ngôi nhà từ vài mét đến vài chục mét vuông, nép dưới bóng chùa hay bóng cây. Đó là các điểm dừng, nghỉ cho khách đi đường, do bà con dân tộc Khmer xây dựng. Tiếng Khmer gọi đó là các “Thala” (Schla).

Nghề làm cốm dẹp truyền thống của người Khmer (Sóc Trăng)

Cốm dẹp là một món ăn đặc sản nổi tiếng của vùng Sóc Trăng, không chỉ là biểu tượng văn hóa đặc trưng của địa phương mà còn gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ. Món ăn này không chỉ được sử dụng trong những bữa ăn hàng ngày mà còn là một phần không thể thiếu trong các dịp lễ quan trọng, đặc biệt là Lễ cúng Trăng - một sự kiện tôn giáo quan trọng của người Khmer.
Top