banner 728x90

Nguồn gốc của Thành Hoàng

16/06/2024 Lượt xem: 2567

Thờ cúng Thành hoàng là tín ngưỡng rất phổ biến ở các làng xã người Việt và ở một số dân tộc thiểu số khác, như Mường, Tày, tuy mức độ kém phổ biến hơn. Có thể nói, nếu thờ tổ tiên là tín ngưỡng chính của cộng đồng gia tộc thì thờ Thành hoàng là tín ngưỡng chính của cộng đồng làng. Thiếu hiểu biết về thờ Thành hoàng làng xã sẽ hạn chế đối với sự hiểu biết dân gian nói chung và tín ngưỡng làng xã nói riêng, đối với việc tìm hiểu con người và văn hóa của người nông dân Việt Nam.

Đình làng Thọ Bình thờ Thành Hoàng Chử Đồng Tử

Đã có nhiều nhà nghiên cứu bỏ công sức tìm kiếm từ nguyên của chữ “Thành hoàng” và đưa ra định nghĩa về loại tín ngưỡng này. Một điều không thể chối cãi là “Thành hoàng” là tên gốc từ Hán: “Thành” là cái thành, còn “Hoàng” là cái hào đào sâu bao quanh thành, tức vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành trì của Trung Quốc. Sách Lễ nghĩa thông khảo của Trung Quốc nói “Thành hoàng là thần bảo vệ Thành. Vì vậy đã là Thành dù to hay nhỏ người Trung Quốc đều thờ Thành hoàng”.

Như vậy, cùng mang tên Thành hoàng nhưng ở Trung Quốc là vị thần của Thành trì, Thành thị, mà nổi tiếng nhất là Thành hoàng của Thượng Hải, phổ biến nhất ở Trung Quốc từ thời Đường – Tống; còn ở Việt Nam thì Thành hoàng là vị thần của mỗi làng xã, trong khi đó các làng, thôn của Trung Quốc chỉ thờ các Thổ thần.

Các nhà nghiên cứu của nước ta cũng đã để công khảo cứu tên “Thành hoàng” được dùng ở nước ta từ bao giờ. Ở Trung Quốc người ta truy tìm gốc gác vị Thành hoàng đầu tiên ở sách Chu Lễ là Thùy Dung (hay Chúa Dung), theo quan niệm dân gian là vị Hỏa thần, luôn trú ngụ trên tường và cửa thành, nhưng việc cúng lễ Thành hoàng và phong Vương cho Thành hoàng là từ thời Hậu Đường (934) và tới thời nhà Minh thì chính thức hóa việc cúng tế Thành hoàng ở các phủ, châu, huyện. Còn ở nước ta, sách đầu tiên nói đến Thành hoàng là Việt điện u linh, đó là Tô Lịch với tướng hiệu “Đô phủ Thành hoàng thần quân” của thành Đại La, lúc đó là trị sở của phủ đô hộ nhà Đường tại Việt Nam. Cũng phải ghi nhận rằng, việc phong thần này là theo mô thức Thành hoàng của Trung Quốc và do các quan đô hộ Trung Quốc gia phong. Đó là một kiểu Thành hoàng Trung Quốc được áp đặt ở Việt Nam và sau này nhà nước phong kiến Việt Nam tiếp tục gia phong và thờ phụng. Đặc biệt là sau khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long đã phong thần Tô Lịch là Quốc Đô Thăng Long Thành hoàng Đại Vương. Đến đời Trần thì với mỹ hiệu: Bảo Quốc Trần linh định bang, Quốc đô Thành hoàng Đại Vương. Đến triều Lê, năm 1442, vua Lê Nhân Tông cho lập đền thờ Đô Đại Thành hoàng./.

Ban Nghiên cứu Tôn giáo

 

Tags:

Bài viết khác

Phong tục cúng giỗ đầu trong văn hóa của người Việt

Giỗ đầu còn gọi là Lễ tiểu tường, là ngày giỗ đầu tiên, tổ chức sau ngày người mất đúng một năm. Đây cũng chính là một nét văn hóa đặc trưng của người Việt từ xa xưa cho đến hiện nay.

Sự khác biệt trong phong tục thờ cúng giữa người Hoa với người Việt

Dù chịu ảnh hưởng bởi lối sống của người Việt nhưng người Hoa vẫn giữ được những phong tục riêng, đặc biệt là phong tục thờ cúng. Chính việc giữ gìn phong tục này đã tạo nên sự khác biệt độc đáo giữa người Việt và người Hoa, góp phần làm đa dạng bản sắc văn hóa của các dân tộc.

Hình tượng chim hạc trong đời sống tâm linh người Việt

Chim Hạc với hình ảnh nhẹ nhàng, tinh tế uyển chuyển là biểu trưng cho điềm lành, thanh cao thoát tục, trường thọ và hạnh phúc. Người dân dùng hình tượng Hạc để biểu thị mong ước ấm êm, gia đình vui vẻ.

Vai trò của bản hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Bản hội chính là một loại hình cộng đồng tôn giáo, tín ngưỡng. Cộng đồng này được cố kết với nhau bởi có cùng niềm tin vào sự độ trì của các vị thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu và có chung một đồng thầy với những năng lực đặc biệt. Những phân tích lý thuyết về mối quan hệ giữa cộng đồng và di sản văn hóa đã chỉ ra vai trò chủ thể sáng tạo, thực hành, bảo vệ và trao truyền di sản của cộng đồng. Không có cộng đồng ắt sẽ không có di sản.

Tứ Phủ Thánh Cô trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Tứ Phủ Thánh Cô gồm Thập Nhị Thánh Cô (Mười hai cô). Trong Đạo Mẫu, Tứ Phủ Thánh Cô đứng sau Ngũ Vị Tôn Ông, Tứ Phủ Chầu bà, Tứ Phủ Quan Hoàng, đứng trên Tứ Phủ Thánh Cậu.

Tục thờ cúng bà Mụ trong tín ngưỡng người Việt

Lễ cúng Mụ thịnh hành trong một số dân tộc châu Á trong đó có dân tộc Việt, và thường được tổ chức vào những thời điểm khi đứa trẻ mới sinh được 3 ngày (ngày đầy cữ), 1 tháng (ngày đầy tháng) và 1 năm (ngày thôi nôi).

Hành lễ trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Cũng như các tôn giáo, tín ngưỡng khác, tín ngưỡng thờ Mẫu cũng có những nguyên tắc nhất định trong việc hành lễ. Hành lễ trong tín ngưỡng thờ Mẫu là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện.

Tứ Phủ Thánh Cậu trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Tứ Phủ Thánh Cậu gồm có 12 Thánh Cậu, là các hình tượng nam thiếu niên, nhanh nhẹn, xông xáo, mạnh mẽ, hiếu động và thường là hầu cận của một vị thánh quan trong Tứ Phủ Quan Hoàng.
Top