banner 728x90

Lễ thức trong tang ma của người Việt

15/06/2024 Lượt xem: 2457

Lễ thức trong tang ma được coi là lễ thứ quan trọng bậc nhất để đưa ông bà, cha mẹ vừa mất về gặp tổ tiên và gia nhập vào hàng các vị tổ tiên (những người mới chết được lập bàn thờ riêng, cho tới khi giỗ hết, cải táng sạch sẽ, mới được ghép thờ chung với tổ tiên). Sách Thọ Mai gia lễ đã ghi chép khá chi tiết các quy định của lễ tang. Rất nhiều thứ lễ được quy định trong đám tang: lễ phục hồn, phạn hàm, thành phục, thiên cữu, yết tổ, khiển điện. Sau khi chôn cất, còn các lễ thành phần, phản khốc, sơ ngu, mở cửa mả (sau ba ngày), lễ 49 (hoặc 50) ngày, lễ 100 ngày. Quy định tang phục của con cháu, nghi thức lễ… đều nhằm mục đích biểu lộ đạo hiếu sâu sắc của con người.

Sau lễ tang ma, lễ giỗ là nghi thức rất được chú trọng. Ngay trong truyện cổ tích Tấm Cám quen thuộc với người Việt Nam cũng thấy chi tiết, cô Tấm sau khi đã được làm hoàng hậu, ngày giỗ cha vẫn phải về nhà dự lễ. Trong tâm lý người Việt, ta thấy cả nỗi lo lắng về sự “mất giỗ”.

Có con mà gả chồng xa

Trước là mất giỗ, sau là mất con

Ngày giỗ (kỵ nhật) là ngày kỷ niệm ngày mất của người thân trong gia đình hàng năm. Trong các lễ giỗ, có ba ngày chú ý nhất tiểu tường (giỗ đầu), đại tường (giỗ hết), trừ phục (lễ cởi bỏ đồ tang). Các ngày giỗ thường kỳ trong các năm sau được coi là cát kị (giỗ lành).

Trước lễ tiểu tường, nhiều gia đình còn làm lễ tiên thường (cáo giỗ) nhằm xin phép Thổ công để linh hồn người đã mất trở về gia đình nhận giỗ. Đồ lễ cúng trong giỗ đầu và giỗ hết phải chuẩn bị rất chu đáo. Trong cỗ cúng, cũng như đã cúng suốt 49 ngày sau khi người thân mất, bao giờ cũng phải có bát cơm úp vào một quả trứng luộc. Cách giải thích hiện tượng này có khác nhau: bát cơm úp thể hiện lòng hiếu thảo đầy đặn của con cháu, và quả trứng (sẽ là con gà) là dấu tích thờ mặt trời, hoặc quan niệm quả trứng là dấu hiệu cầu mong sự hồi sinh, trứng là cội nguồn. Cũng có người giải thích: vì bát cơm úp và đôi đũa bông là biểu tượng của âm dương để tạo nên những sự sống mới… vào ngày giỗ, nhiều gia đình làm cỗ cúng rất to, mổ lợn, giết bò linh đình, khá tốn kém. Ngay trong dân gian xưa đã có sự chê trách việc này:

Sống thì chả cho ăn nào

Chết thì cúng giỗ mâm cao cổ đầy

Mâm lễ cúng giỗ

Có một số nguyên nhân của việc làm giỗ to: trước hết, gia chủ mời tổ tiên và người thân mới mất về hưởng lễ, mặt khác là để tiếp đãi khách khứa. Trong số này có cả những người thân tộc vốn con thứ, cháu ngoại đến gửi giỗ (họ thường mang đồ lễ, gạo và tiền đến như hình thức góp giỗ) và cả bạn bè, xóm giềng của gia chủ. Đây cũng là hình thức cảm ơn những người đã giúp đỡ gia đình trong những ngày tang lễ mà do bận rộn họ không đón tiếp được chu đáo (đó là chưa kể tới khía cạnh “trả nợ miệng” ở làng quê). Theo quy định xưa, vào ngày giỗ đầu, trang phục tang lễ mũ gậy, áo xô lại được con cháu mang ra mặc. Khách đến vái lễ trước bàn thờ, gia chủ cũng phải vái trả lễ như trong những ngày tang (khách vái hai lạy, chủ vái trả một lạy, khách vái bốn lạy, chủ vái trả hai lạy…). Khi khách đã vãn, tổ tiên đã hưởng lễ, gia chủ làm lễ và hóa vàng. Đồ mã được gửi cho người chết cũng theo quy định: ở lễ Đại tường đó là “mã biếu” vì người chết phải sử dụng để biếu các ác thần mong tránh sự quấy nhiễu (dân gian quan niệm cõi âm như cõi trần), ở lễ Đại tường và lễ Trừ phục (một ngày tốt được chọn sau lễ Đại tường để đốt bỏ tang phục) đồ mã còn cần nhiều hơn: mọi vật dụng sinh hoạt cho người chết (quần áo, giày dép, xe cộ), thậm chí cả các hình nhân bằng giấy để xuống cõi âm phục vụ cho họ. Sau khi hóa (đốt) những đồ mã này, đổ một chén rượu lên đống tàn vàng để vật mã trở thành vật thật, tiền thật dưới cõi âm. Người ta còn hơ một chiếc đòn gánh, gậy trên ngọn lửa hóa vàng, hoặc dựng một cây mía bên cạnh với lời giải thích “để các cụ gánh vác về”. Tâm thức dân gian thật bình dị và giàu tính thực tiễn.

Ban Nghiên cứu Tôn giáo

 

Tags:

Bài viết khác

Phong tục cúng giỗ đầu trong văn hóa của người Việt

Giỗ đầu còn gọi là Lễ tiểu tường, là ngày giỗ đầu tiên, tổ chức sau ngày người mất đúng một năm. Đây cũng chính là một nét văn hóa đặc trưng của người Việt từ xa xưa cho đến hiện nay.

Sự khác biệt trong phong tục thờ cúng giữa người Hoa với người Việt

Dù chịu ảnh hưởng bởi lối sống của người Việt nhưng người Hoa vẫn giữ được những phong tục riêng, đặc biệt là phong tục thờ cúng. Chính việc giữ gìn phong tục này đã tạo nên sự khác biệt độc đáo giữa người Việt và người Hoa, góp phần làm đa dạng bản sắc văn hóa của các dân tộc.

Hình tượng chim hạc trong đời sống tâm linh người Việt

Chim Hạc với hình ảnh nhẹ nhàng, tinh tế uyển chuyển là biểu trưng cho điềm lành, thanh cao thoát tục, trường thọ và hạnh phúc. Người dân dùng hình tượng Hạc để biểu thị mong ước ấm êm, gia đình vui vẻ.

Vai trò của bản hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Bản hội chính là một loại hình cộng đồng tôn giáo, tín ngưỡng. Cộng đồng này được cố kết với nhau bởi có cùng niềm tin vào sự độ trì của các vị thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu và có chung một đồng thầy với những năng lực đặc biệt. Những phân tích lý thuyết về mối quan hệ giữa cộng đồng và di sản văn hóa đã chỉ ra vai trò chủ thể sáng tạo, thực hành, bảo vệ và trao truyền di sản của cộng đồng. Không có cộng đồng ắt sẽ không có di sản.

Tứ Phủ Thánh Cô trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Tứ Phủ Thánh Cô gồm Thập Nhị Thánh Cô (Mười hai cô). Trong Đạo Mẫu, Tứ Phủ Thánh Cô đứng sau Ngũ Vị Tôn Ông, Tứ Phủ Chầu bà, Tứ Phủ Quan Hoàng, đứng trên Tứ Phủ Thánh Cậu.

Tục thờ cúng bà Mụ trong tín ngưỡng người Việt

Lễ cúng Mụ thịnh hành trong một số dân tộc châu Á trong đó có dân tộc Việt, và thường được tổ chức vào những thời điểm khi đứa trẻ mới sinh được 3 ngày (ngày đầy cữ), 1 tháng (ngày đầy tháng) và 1 năm (ngày thôi nôi).

Hành lễ trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Cũng như các tôn giáo, tín ngưỡng khác, tín ngưỡng thờ Mẫu cũng có những nguyên tắc nhất định trong việc hành lễ. Hành lễ trong tín ngưỡng thờ Mẫu là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện.

Tứ Phủ Thánh Cậu trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Tứ Phủ Thánh Cậu gồm có 12 Thánh Cậu, là các hình tượng nam thiếu niên, nhanh nhẹn, xông xáo, mạnh mẽ, hiếu động và thường là hầu cận của một vị thánh quan trong Tứ Phủ Quan Hoàng.
Top