banner 728x90

Hình tượng con khỉ trong văn hóa Việt Nam

17/07/2024 Lượt xem: 2771

Có lẽ từ khởi thủy vũ trụ, tạo hóa đã ban cho loài vật này những đặc tính tinh khôn, nhanh nhạy, giàu tình cảm như con người vậy. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, con Khỉ đã trở thành một hình tượng trong văn hóa Việt. Trong 12 con giáp, Thân là con Khỉ đứng hạng thứ 9 của 12 con vật trong Thập nhị Địa chi.

Tượng khỉ thời Lý

Tại tháp Chương Sơn của chùa Đọi Sơn (Duy Tiên - Hà Nam), một danh lam nổi tiếng thời Lý (thế kỷ XI - XII), đã tìm thấy pho tượng một thân và 4 đầu Khỉ khác nhau. Dáng Khỉ tháp Chương Sơn khá hiện thực, đầu rộng 6 cm, mắt tròn, mày cong, mồm mím và trán có điểm vài nếp nhăn, một tay vắt qua tai ôm lấy đầu. Phần thân cao 13,5 cm, hai chân gập lại co lên phía ngực theo kiểu ngồi bó gối, tay trái ôm lấy cổ chân trái. Trên các bức chạm khắc năm 1647 ở hành lang đá chùa Bút Tháp (Thuận Thành - Bắc Ninh) hình tượng Khỉ cũng xuất hiện sinh động.

Sở dĩ Khỉ trở thành hình tượng được điêu khắc trong chùa vì theo Phật thoại, nó là một đệ tử rất thành tâm đối với Đức Phật, đến nỗi quên cả nguy hiểm đe dọa tính mạng.

Trong văn hóa Phật giáo có câu “Tâm Viên ý Mã” (tâm luôn nhảy nhót như con Khỉ và ý thức, suy nghĩ chạy nhanh như con Ngựa). “Tâm viên ý mã’’ ở đây chỉ cái Tâm lăng xăng, buông lung, chạy theo “lục dục thất tình” của chúng sinh. Vậy muốn được thanh thản, không bị vướng vào vòng ô trọc, hệ lụy tầm thường thì mỗi cá nhân phải biết chế ngự “tâm ý” mình.

Ta có thể thấy, pho tượng Thiền sư Vạn Hạnh (đúc bằng đồng ở thời Lê - Nguyễn) thờ tại chùa Tiêu (Tương Giang, Từ Sơn - Bắc Ninh) đã thể hiện được công phu Thiền định cao siêu của một Thiền sư xuất sắc bậc nhất dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci), người lập ra thế hệ thứ 12 dòng Thiền Nam phương và cũng là vị cố vấn chính trị nổi tiếng hai triều Tiền Lê và Lý qua việc tạc ngài cưỡi trên lưng Hổ, một tay đặt lên đầu con Khỉ đang chầu bên cạnh.

Không chỉ để dấu ấn trong các ngôi chùa mà hình tượng Khỉ lan tỏa cả vào các di tích đền đình. Trên tấm bia dựng năm 1608 ở đền vua Đinh Tiên Hoàng và đền Lê Đại Hành (Hoa Lư - Ninh Bình) chạm đôi Khỉ ôm nhau. Với kỹ thuật chạm nổi theo kiểu kênh bong, nghệ nhân xưa đã điểm xuyết hình tượng Khỉ cùng các linh thú khác trên các bộ cửa và hệ thống cột ở đền Xám (Hồng Quang, Nam Trực - Nam Định), nơi thờ sứ quân Trần Lãm (một trong 12 sứ quân thời tiền Lê).

Trong tín ngưỡng Tứ phủ, hình bóng con Vượn (một loài Khỉ) là biểu tượng cho không khí rừng núi hoang sơ khi Vượn ra mắt dâng cúng hoa quả. Trong văn học cổ điển Việt Nam, danh từ Vượn đã xuất hiện rất sớm trong buổi đầu của chữ Nôm thời Trần (thế kỷ XIII – XIV), khi Thiền sư Huyền Quang (1254-1334), đệ Tam Tổ thiền phái Trúc Lâm Yên Tử viết  trong “Phú vịnh chùa Hoa Yên”:

Chim óc (gọi) bạn, cắn hoa nâng cúng

Vượn bồng con, cời cửa nghe kinh

Thưởng thức dân ca Huế “Lý qua đèo”, dân ca Quan Họ Bắc Ninh “Ăn ở trong rừng” và những điệu xẩm huê tình cũng nhắc đến Vượn với ý nghĩa tượng trưng cho nỗi niềm thương nhớ da diết và cảnh vượt thâm sơn gian nan.

Trong đời sống xã hội thời phong kiến thì từ “Hầu” (con Khỉ) đồng âm với từ “Hầu” - một tước vị quyền quý được xếp theo thứ bậc “Công, Hầu, Bá, Tử, Nam”, cho nên trong nhiều bức tranh đã vẽ hình tượng con Khỉ mang ý nghĩa là “phong hầu” (phong chức tước).

Nếu tranh vẽ hình tượng con Khỉ trèo trên cây Phong thì biểu tượng mang ý nghĩa “Phong hầu quải ấn” (đeo ấn phong hầu). Tranh vẽ hình tượng con Khỉ cưỡi trên lưng Ngựa thì biểu tượng mang ý nghĩa “Mã thượng phong Hầu” (Cưỡi ngựa phong hầu). Tranh vẽ 2 con khỉ ngồi trên cây Tùng hoặc 1 con khỉ cưỡi lên lưng con kia, có nghĩa là “Bối bối phong Hầu” (đời đời phong Hầu). Những dịp Tết Xuân, người ta biếu tặng nhau những bức tranh ấy tỏ ý chúc mừng cho sự thăng quan tiến chức, thành công, may mắn trong sự nghiệp.

Cũng từ thực tế quan sát kỹ các động tác leo trèo, chạy nhảy, săn bắt, hái lượm của loài Khỉ mà trong võ thuật, người ta đã sáng tạo ra môn phái Hầu quyền. Môn phái đặc thù này đòi hỏi người sử dụng phải phối hợp nhịp nhàng thân pháp, thủ pháp, cước pháp thật uyển chuyển, linh hoạt, nhẹ nhàng, chủ yếu lấy nhu chế cương. Để có thân - thủ - cước phi phàm, võ sĩ Hầu quyền phải học cả khinh công và khí công.

Có thể nói, hình tượng con Khỉ đã đi vào văn hóa Việt như một dấu ấn thân thương, gần gũi và mang tính triết - mỹ - nhân văn.

Ban Nghiên cứu Văn hóa

 

 

Tags:

Bài viết khác

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Việt Nam

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều mang trong mình những nét văn hóa riêng. Văn hóa là cái gốc cho sự phát triển, phồn thịnh của một đất nước. Việt Nam là một dân tộc mang một nền văn hóa đậm đà bản sắc, đa dạng và phong phú. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam từ lâu đã đóng vai trò quan trọng đối với người dân Việt, văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tâm thức người dân.

Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội cổ truyền ở Việt Nam

Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong các lễ hội cổ truyền của Việt Nam, thể hiện bản sắc văn hóa, tâm linh và lòng tôn kính đối với các thế lực siêu nhiên, Tổ tiên, thần thánh. Bài viết tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật về tín ngưỡng dân gian trong các lễ hội cổ truyền của người Việt, đặc biệt, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu...

Ý nghĩa và mục đích của tục “Bán khoán con lên chùa”

Bán khoán con cho chùa là một tín ngưỡng dân gian, một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh. Có hai hình thức bán khoán con lên chùa: Bán khoán đến hết năm 12 tuổi rồi “chuộc” con ra, hoặc là bán khoán trọn đời. Từ xưa đến nay, nhiều gia đình quan niệm, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, khóc lóc không phải là do bị bệnh từ thân hoặc những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch).
Top