banner 728x90

Gìn giữ sáu căn

16/09/2025 Lượt xem: 2357

Gìn giữ hay phòng hộ sáu căn là một pháp tu quan trọng. Pháp tu này xảy ra mọi lúc, mọi nơi trong đời sống hàng ngày. Bởi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) luôn tiếp xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) rồi sinh yêu, ghét mà tạo nghiệp.

Nghiệp này gọi là nghiệp mới, chúng ta có toàn quyền chủ động trong việc tiếp nhận và chuyển hóa nghiệp này nhờ năng lực chánh niệm, tỉnh giác.

“Một thời Đức Phật ở trong vườn Cù-sư-la, tại nước Câu-diệm-di. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Vào thời quá khứ, có đám cỏ trong sông và có con rùa sống trong bụi cỏ ấy. Khi đó có một con dã can đói đi tìm thức ăn. Vừa thấy con rùa, nó vội nhảy tới vồ lấy. Con rùa thấy vậy, liền thu hết đầu đuôi và bốn chân vào trong mai. Dã can canh đợi con rùa thò đầu, chân ra là chụp ăn liền. Nhưng chờ lâu quá, mà nhất định rùa không thò đầu và chân ra. Dã can đói quá, tức tối bỏ đi.

- Này các Tỳ-kheo, ngày nay các ông cũng lại biết như vậy. Ma Ba-tuần luôn luôn dò xét tìm cơ hội bên các ông. Mong đợi mắt các ông đắm sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý nhớ pháp mà xúi giục sanh tâm đắm nhiễm sáu trần. Cho nên Tỳ-kheo, các ông phải luôn luôn giữ gìn luật nghi của mắt. Khi đã giữ gìn an trụ nơi luật nghi của mắt rồi, dù mắt có sanh khởi hoặc duyên cảnh đi nữa thì ác ma Ba-tuần cũng không thể tìm được cơ hội. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Dù sáu căn kia có sanh khởi hoặc duyên cảnh đi nữa, thì chúng cũng không thể tìm được tiện lợi. Giống như con rùa, dã can không thể tìm được cơ hội nào.

Bấy giờ Phật liền nói kệ:

Rùa vì sợ dã can

Giấu thân vào trong mai

Tỳ-kheo khéo nhiếp tâm

Giấu kín các giác tưởng

Không nương, không sợ hãi

Kín tâm, chớ nói năng.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành”.

(Kinh Tạp A-hàm, quyển 43, kinh số 1167. Con rùa)

Hình ảnh con rùa rụt bốn chân cùng đầu và đuôi vào trong mai khiến dã can không thể làm hại thường được minh họa trong khi tu tập phòng hộ sáu căn. Ma Ba-tuần và con dã can chính là sự dính mắc trong tâm của mỗi người. Yêu thích rồi chạy theo hay ghét bỏ rồi xua đuổi đều là dính mắc, bị dã can ăn thịt, bị ác ma làm hại.

Phòng hộ không có nghĩa là đóng kín kiểu bịt mắt, che tai. Dù lên núi cao, vào rừng sâu hoặc nhập thất cửa đóng then cài cũng chỉ là tránh duyên. Với ý căn và pháp trần (những gì được lưu lại trong tâm thức từ mắt, tai, mũi, lưỡi và thân) thì trốn đâu cũng không có tác dụng, vì nó xảy ra trong nội tâm. Cho nên người tu cần chánh niệm, tỉnh giác để giữ cho cái thấy chỉ là cái thấy, cái nghe chỉ là cái nghe… mà không bị cảnh trần chi phối.

Cần thấy rõ do duyên xúc (căn và trần tiếp xúc) mà sinh thọ (cảm thọ lạc, khổ, xả), từ thọ sinh ái (bao gồm cả yêu ghét) và tất cả khổ đau. Nếu có xúc nhưng chỉ là sự thấy hoặc nghe đơn thuần thì thọ và ái không hình thành, toàn bộ khổ đau vắng mặt.

Dã can chỉ làm hại con rùa khi thò bốn chân và đầu đuôi ra ngoài. Cũng vậy, ác ma có thể gây hại khi sáu căn không được phòng hộ. Vì căn luôn tiếp xúc với trần nên chú tâm cảnh giác và chánh niệm tỉnh giác là nền tảng của phòng hộ sáu căn.

Quảng Tánh/Báo Giác Ngộ

 

Tags:

Bài viết khác

Hiếu là cội nguồn của đạo làm người

Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, hiếu không chỉ là một đức tính căn bản mà còn là nền tảng để xây dựng nhân cách, gia đình và xã hội. Vào thế kỷ II, khi Phật giáo du nhập vào Giao Châu, Mâu Tử đã soạn Lý hoặc luận để giải trừ nghi hoặc với giới Nho sĩ và Đạo gia về Phật giáo.

Tình và Trí

Tình cảm và lý trí khó có thể tồn tại đồng thời một cách trọn vẹn, viên mãn. Những người làm đầu ngành kinh tế, lãnh đạo hoặc khoa học bận để tâm trí và thời gian vào chuyên môn cho nên thường phải hy sinh hạnh phúc riêng gia đình.

Kỳ Lân – Linh Vật Thiêng Liêng Trong Phật Giáo

Trong văn hóa Á Đông, kỳ lân là một trong tứ linh Long – Lân – Quy – Phụng, tượng trưng cho điềm lành, trí tuệ và sự thịnh vượng. Riêng trong Phật giáo, kỳ lân được tôn kính không chỉ bởi hình ảnh huyền thoại mà còn bởi ý nghĩa tâm linh sâu sắc, biểu trưng cho lòng từ bi, chính nghĩa và trí huệ.

Công năng của Thần Chú Vãng Sanh

Trong kho tàng tu tập của Phật giáo Tịnh độ, bên cạnh pháp môn niệm Phật “Nam Mô A Di Đà Phật” được xem là cốt lõi, còn có một mật ngôn được trì tụng phổ biến trong các nghi lễ cầu siêu, cầu vãng sanh: đó là Thần Chú Vãng Sanh.

Ý nghĩa sâu xa của thần chú Om Mani Padme Hum

OM MANI PADME HUM - sáu âm thanh ngắn ngủi - chính là tinh hoa của 84.000 pháp môn, là cốt tủy của con đường Phật dạy. Trì tụng thần chú này, tức là gieo hạt giống bi mẫn và trí tuệ trong tâm mình. Hạt giống ấy, khi được tưới tẩm bằng niềm tin, sự tỉnh giác và lòng từ bi, nhất định sẽ nảy nở thành cây giác ngộ, che mát cho chính ta và cho tất cả chúng sinh.

Phật giáo và các giá trị nhân bản

Trước khi Ðức Phật xuất thế, có 2 phương pháp tu tập thịnh hành ở Ấn Độ. 1) Tu sĩ Bà-la-môn tìm kiếm sự cứu rỗi và giải thoát bằng cách áp dụng những cuộc tế lễ đẫm máu, 2) Một số người thay vì tế lễ họ tu theo phương pháp khổ hạnh ép xác với hy vọng có được kết quả trong tương lai. Ðức Phật xem hai cách thực hành trên là không hoàn thiện, không đem lại lợi ích cho người thực hành.

8 đặc tính của hoa sen trong Phật giáo

Nói đến Phật giáo, người ta thường liên tưởng đến một loài hoa bình dị, thanh cao và thoát tục sống trong ao hồ: hoa Sen - một trong tám biểu tượng của Phật giáo. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa lấy hoa Sen làm đề kinh.

Đức Phật và những di huấn sau cùng

Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn. Nhưng Ngài giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, chịu đựng cơn đau ấy, không một chút ta thán.
Top