banner 728x90

Độc đáo nghệ thuật “Nói lý, hát lý” của đồng bào Cơ Tu

16/07/2024 Lượt xem: 2606

Nói lý, hát lý là một trong những hình thức tự sự dân gian đặc sắc và độc đáo, tồn tại từ thời xa xưa, không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Cơ Tu, tỉnh Quảng Nam. Đây là hình thức nghệ thuật ứng khẩu kết hợp giữa nói với hát, thường được các già làng, những người lớn tuổi trong làng sử dụng để chuyển tải tâm tình, cách ứng xử với nhau trong đời sống.

Người Cơ Tu chủ yếu sống tập trung ở huyện Tây Giang, Đông Giang và 6 xã ở huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam với nghề nương rẫy là chính, ngoài ra còn có trồng trọt và chăn nuôi nhỏ lẻ, chủ yếu phục vụ nhu cầu tại chỗ. Tập quán nói lý, hát lý trong cộng đồng người Cơ Tu đã có từ lâu đời. Đây là loại hình nghệ thuật dân gian thổi hồn trong đời sống sinh hoạt của đồng bào nơi đây.

Văn hóa tộc người Cơ Tu rất đa dạng và phong phú. Trong sinh hoạt văn hóa văn nghệ và các lễ hội truyền thống như lễ hội đâm trâu, mừng lúa mới, mừng nhà mới hay cưới hỏi..., người Cơ Tu thường sử dụng nghệ thuật nói lý, hát lý truyền thống.

Đặc biệt, trong đám cưới người Cơ Tu thường sử dụng nghệ thuật nói lý, hát lý khá phổ biến. Đại diện nhà trai, nhà gái thông qua câu nói lý, hát lý để trao đổi, hai bên sui gia thông hiểu nhau hơn, giải quyết tốt đẹp những thủ tục cưới hỏi, thể hiện ý tứ những tình cảm sâu sắc được dành cho cô dâu chú rể, nhằm chúc mừng, bảo ban, tác hợp lứa đôi, để họ hạnh phúc bên nhau suốt cuộc đời.

Nói lý, hát lý còn được dùng như một phương tiện lý tưởng để giải quyết các mâu thuẫn, xích mích trong các mối quan hệ giữa gia đình, bạn bè, xã hội, công việc… Thông qua hình thức đối thoại mềm mại này, người ta hòa giải những xung đột, tranh chấp giữa các cá nhân với gia đình, cá nhân với cộng đồng hay giữa các cộng đồng với nhau một cách dễ dàng hơn. Nhờ lời ngâm nga chân tình, thâm thúy của già làng mà người với người xích lại gần nhau, từ mối bất đồng đến hòa giải, từ sự đấu tranh đến thương thuyết, từ sự giằng co đến lúc mọi việc được dàn xếp yên ổn. Lời hát lý của già làng khuyên hai bên phải nghe phân xử, hướng đến mối quan hệ tốt đẹp. Nói lý, hát lý chính là luật tục, là tập quán, là những chuẩn mực được đồng bào đặt ra để duy trì nếp sống tự quản của dân làng, hàm chứa những nội dung, tinh thần của pháp luật hiện hành. Chính điều này làm cho nói lý, hát lý mang tính nhân văn sâu sắc.

Điều thú vị của nghệ thuật nói lý, hát lý là ở chỗ, nói lý, hát lý là cuộc so tài về văn nghệ giữa hai bên, là cuộc đấu khẩu lý lẽ, vì vậy hai bên đều âm thầm sắp xếp lực lượng, ai hát trước, ai hát sau, ai kết thúc. Bên này hát một câu, bên kia hát đáp lại một câu, bà con cùng nhau bàn luận, trao đổi ý nghĩa câu hát. Mỗi người chỉ hát một câu, nhưng lời hát điêu luyện, hình ảnh vừa đẹp, vừa mới, ý tứ sâu xa, tóm tắt được ý kiến của mọi người.

Cái khó của nói lý, hát lý là không có bài mẫu chung để học hát, học nói mà nó phụ thuộc vào việc ứng khẩu của người đưa ra, trình độ, khả năng kinh nghiệm của từng nghệ nhân, người hát. Các làn điệu làm nên âm hưởng cho hát lý là ka lơi, cha chấp, rơah, kalâu-kalênh và điệu nơơi. Muốn nói lý, hát lý hay, sâu sắc, ngoài việc ăn nói lưu loát, nhanh trí tìm ra vần, biết lên bổng xuống trầm đúng lúc, đúng điệu, thì điều cơ bản là phải hiểu cho rành rọt xã hội và con người ở vùng đất đó. Cái hay nhất của nói lý, hát lý chính là dùng một hình tượng để chỉ một sự việc với những hình ảnh ví von, vì thế ngôn từ của nói lý, hát lý luôn ẩn ý. Nói tên một con suối phải biết đó là con suối cát hay đá, nước trong hay đục, sâu hay cạn, có nước bốn mùa hay chỉ có trong mùa mưa. Biết tường tận như vậy thì khi nghe người hát nêu tên con suối là biết ngay họ nói đến cái tốt, cái trong sạch, cái bền bỉ thủy chung; hay cái xấu, cái dơ bẩn, cái không ổn định.

Hầu hết đồng bào Cơ Tu đều biết nói lý, hát lý từ lúc gùi được nước uống, biết cầm cán rựa, con dao làm rẫy. Nhưng nói lý, hát lý sâu xa, nhiều tầng, nhiều lớp, để đả thông tư tưởng, giải quyết được công việc thì mỗi bản, mỗi thôn chỉ có một vài người. Nói lý, hát lý xem ra đã khó, nhưng hiểu được nói lý, hát lý còn khó hơn.

Các cụ già người Cơ Tu đối đáp bằng nói lý, hát lý

Vì vậy, trong các buổi nói lý, hát lý, chỉ có những người lớn tuổi có năng khiếu bẩm sinh, thường từ 50 tuổi trở lên và đặc biệt là già làng mới có được cái uy để tổ chức và tham gia nói lý, hát lý. Họ là những người đã được dân làng lựa chọn, hội tụ đủ yêu cầu cho một nghệ nhân hát lý như am hiểu phong tục tập quán, đĩnh đạc, tự tin... Do vậy, các “đối tác” phải ngang sức ngang tài với nhau, trước khi hát lý phải suy nghĩ cân nhắc và chắt lọc câu chữ thích hợp, để bên kia hiểu được nội dung và có cách đối đáp nhịp nhàng. Sự hứng thú, say mê của nghệ nhân tham gia hát lý được thăng hoa nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ, âm điệu, sự tán dương, khen ngợi của người nghe khi được thưởng thức lời ca và cảm nhận được những ý tứ sâu sắc từ người lĩnh xướng. Họ chính là linh hồn của buổi nói lý, hát lý.

Trong quá trình nói lý, hát lý, khi một bên nói lý đúng quá và đối phương không thể đối lại thì gọi là “hết lý” hoặc “chết lý”. Trong tập quán của người Cơ Tu, khi bị đối phương bắt lý và hết lý, dù là kẻ thù đi chăng nữa họ cũng tâm phục, khẩu phục và giảng hòa theo ý của đối phương.

Ngày nay, trong sinh hoạt lễ hội, giải quyết công việc trong nội bộ cộng đồng, người Cơ Tu vẫn không thể thiếu nói lý, hát lý. Đêm đêm, bên bếp lửa hồng, mọi người tụ tập để nghe già làng kể chuyện và tâm tình qua lại bằng lời hát lý thấm đẫm tình người. Đây là nét sinh hoạt văn hóa nghệ thuật độc đáo, có một không hai mà đồng bào dân tộc Cơ Tu vô cùng tự hào và luôn có ý thức gìn giữ, bảo tồn./. 

Ban Nghiên cứu Văn hóa

 

 

Tags:

Bài viết khác

Nhạc cụ truyền thống trong hát Chầu Văn

Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (tín ngưỡng thờ Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuần), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Nét văn hóa tâm linh trong kiến trúc nhà thờ họ

Kiến trúc nhà thờ họ là biểu tượng vật chất đậm nét văn hóa phi vật thể của các tộc họ ở Việt Nam. Đây là nơi lưu giữ giá trị, tổ chức, quan hệ, và thành tựu của mỗi dòng tộc qua nhiều thế hệ. Theo truyền thống, nhà thờ họ thường được xây dựng theo cấu trúc đơn giản nhưng hài hòa, mang đậm nét riêng của văn hóa dân gian.

Vai trò và ý nghĩa của nhà thờ họ tại Việt Nam

Nhà thờ tổ hay từ đường là một ngôi nhà dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ (dòng của cha). Nhà thờ họ phổ biến trong văn hóa người Việt tại khu đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tứ quý trong tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Tứ quý thuộc loại tứ bình (bốn bức) khổ lớn, vẽ cảnh tứ thời: Xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan, hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa đông: cây trúc, cây thông (tùng).

Cỗ và mâm cỗ truyền thống của người Việt

Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Việt Nam

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều mang trong mình những nét văn hóa riêng. Văn hóa là cái gốc cho sự phát triển, phồn thịnh của một đất nước. Việt Nam là một dân tộc mang một nền văn hóa đậm đà bản sắc, đa dạng và phong phú. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam từ lâu đã đóng vai trò quan trọng đối với người dân Việt, văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tâm thức người dân.

Tín ngưỡng dân gian trong lễ hội cổ truyền ở Việt Nam

Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong các lễ hội cổ truyền của Việt Nam, thể hiện bản sắc văn hóa, tâm linh và lòng tôn kính đối với các thế lực siêu nhiên, Tổ tiên, thần thánh. Bài viết tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật về tín ngưỡng dân gian trong các lễ hội cổ truyền của người Việt, đặc biệt, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng dân gian như: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu...

Ý nghĩa và mục đích của tục “Bán khoán con lên chùa”

Bán khoán con cho chùa là một tín ngưỡng dân gian, một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh. Có hai hình thức bán khoán con lên chùa: Bán khoán đến hết năm 12 tuổi rồi “chuộc” con ra, hoặc là bán khoán trọn đời. Từ xưa đến nay, nhiều gia đình quan niệm, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, khóc lóc không phải là do bị bệnh từ thân hoặc những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch).
Top