banner 728x90

Các hình thức diễn xướng trong tín ngưỡng thờ Mẫu

20/09/2024 Lượt xem: 3442

Nếu như chúng ta có phần nào ngần ngại khi nói tới một “hiện tượng văn học tín ngưỡng thờ Mẫu”, thì hoàn toàn yên tâm và tự tin khi nói về “Diễn xướng tín ngưỡng thờ Mẫu”. Tín ngưỡng thờ Mẫu quả đã sản sinh ra những hình thức diễn xướng riêng cho nó, bắt nguồn từ dân gian, mang sắc thái dân tộc độc đáo, nhưng không trộn lẫn với bất cứ hình thức diễn xướng tâm linh hay đời thường nào khác. Đó là âm nhạc và hát chầu văn, múa hầu bóng, múa và hát bóng rối ở Nam Bộ…

Chầu văn "Cô bé" được diễn xưỡng bởi NGƯT Xuân Hinh

Hầu bóng là một nghi lễ tiêu biểu và đặc trưng nhất của tín ngưỡng thờ Mẫu, vốn xuất phát từ người Việt ở Bắc Bộ, nhưng sau đó theo chân người Việt vào Trung Bộ và Nam Bộ, tạo nên những sắc thái riêng cho mỗi miền. Hầu bóng, nhìn từ góc độ văn hóa - nghệ thuật là một hình thức diễn xướng dân gian tổng hợp, một loại hình sân khấu tâm linh.

Nói đây là hình thức diễn xướng tổng hợp vì nó sử dụng một cách tổng hợp các yếu tố âm nhạc, hát, múa, động tác trong quá trình diễn hầu bóng. Còn gọi đây là một loại hình sân khấu tâm linh, bởi vì từ môi trường, không gian, tình huống và diễn xướng mang đầy đủ những đặc trưng của sân khấu, chỉ khác sân khấu đời thường ở chỗ nó diễn ra trước điện thờ thần linh, và bao trùm lên một không khí thiêng liêng.

Để tạo nên hình thức diễn xướng tổng hợp này thì không thể thiếu âm nhạc và hát văn. Thực ra, âm nhạc và hát văn chầu không chỉ diễn ra trong lễ thức hầu bóng, mà còn trong ca hát văn thờ, thậm chí âm nhạc và làn điệu hát văn còn được tách ra khỏi âm nhạc tín ngưỡng, trở thành một làn điệu dân ca với nội dung khá phong phú, đa dạng của đời sống thường ngày. Chưa ai đề cập tới nguồn gốc ra đời của âm nhạc và làn điệu hát văn, song có lẽ nguyên thủy của nó là hình thức nhạc và hát thờ, hát cửa đền, hát nghi lễ, sau mới tích hợp và nâng cao, phát triển hoàn thiện hơn trong hình thức diễn xướng hầu bóng, với những làn điệu phong phú, thích hợp với từng tình huống, tính cách điệu bộ của từng Thánh giáng đồng.

Hát văn đã hình thành và phát triển trong môi trường sinh hoạt tín ngưỡng, đã cho mình một phong cách ngôn ngữ âm nhạc riêng, không lẫn với bất cứ loại ca hát dân gian hay tín ngưỡng nào. Một hình thức âm nhạc như vậy nhưng nó hoàn toàn không đóng kín mà với những mức độ khác nhau người ta đều thấy ở trong nó khá nhiều ảnh hưởng của các loại hình dân ca của các miền, các dân tộc khác nhau. Đó là những làn điệu của dân ca đồng bằng Bắc Bộ, như các làn điệu sa mạc, bống mạc, cò lả; ảnh hưởng của một số làn điệu ca nhạc thính phòng như hành vân, ngũ đối, kim tiền, lưu thủy, bình bán; của âm nhạc ca trù, như phú chênh, phú xuân, phú tỳ bà, phú cửu đình, phú hạ; ảnh hưởng của ca chèo như phú dầu, lới lơ, của quan họ như đường trường chim thước, của cải lương như xá quảng, của dân ca Huế như lời Huế, của tuồng như kiểu dương thượng; các ảnh hưởng của dân ca Mường, Thái (các điệu xá), của dân ca Tây Nguyên (điệu Xê Đăng)… Khả năng “chầu văn hóa” các loại hình dân ca khác tạo cho hát văn mang nhiều màu sắc địa phương, có thể phổ biến rộng rãi từ bắc tới nam, từ miền xuôi ngược lên vùng núi.

Chặng giao duyên của một cuộc diễn xướng Hát xoan

Để hát văn có thể phù hợp với sự xuất hiện của rất nhiều vị thần linh có thứ bậc, xuất xứ, điệu bộ và tính cách khác nhau, nên trong loại hình âm nhạc này có rất nhiều làn điệu. Cũng có thể nói, hiếm thấy một loại dân ca hay nhạc lễ nào lại có nhiều làn điệu đến như vậy. Chỉ kể những làn điệu chính thì cũng đã có tới khoảng 30, thường gọi là điệu hay giọng. Trong mỗi điệu hay giọng như vậy lại bao gồm nhiều loại khác nhau. Nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian Tô Đông Hải đã thống kê các điệu chính của hát văn: Điệu Bỉ, Miễu, Thống, Phú (có 4 loại Phú), điệu Kiều Dương, Dọc, Cờn (có nhiều loại Cờn), điệu Xá (có nhiều loại Xá), điệu Hãm, Nhịp một, Chèo đò, Bỏ bộ, Thỉnh phụ đồng, Vãn, hò, Song thất, Lới Lơ, Cò lả, Hành vân, Điệu Xê Đăng, Ngũ đối, Lưu Thủy, Kim tiền, Bình Bán, điệu Dồn…

Thực ra, một số điệu của hát văn kể trên còn là các làn điệu của các sinh hoạt âm nhạc dân gian khác của người Việt, tuy nhiện, khi bị thu hút vào Hát văn, nó đã bị “hát văn hóa”, đã có những thay đổi và mang phong cách của Hát văn.

Cũng như nhiều loại dân ca khác, âm nhạc hát văn có cấu trúc mở. Thường là trong cấu trúc giai điệu có một vài nét giai điệu đặc trưng, còn các lời hát thì nội dung và độ dài có thể thay đổi tùy ý. Cấu trúc mở này có thể dùng đề tài nhiều lời văn khác nhau, kể cả những lời hát mang tính hiện đại mà chúng ta thường nghe hát trên đài phát thanh.

Ngày nay, hình thức hát văn phân tách ra thành hát chầu văn trong các nghi lễ hầu đồng và hát văn với tư cách là một làn điệu dân ca, tách ra khỏi sinh hoạt tín ngưỡng, được biểu diễn trên sân khấu, trên đài phát thanh, trong các sinh hoạt văn hóa quần chúng. Tuy nhiên, đâu có sự phân tách đó thì âm nhạc hát văn xét về cội nguồn và đặc trưng, nó vẫn là một loại hình âm nhạc và hát của tín ngưỡng thờ Mẫu.

Các nghệ nhân chơi nhạc và hát trong các buổi hầu đồng là những Cung văn. Họ tham gia vào sinh hoạt hát văn chầu, văn thơ và đặc biệt là trong các buổi hầu đồng của các Ông đồng và Bà đồng. Họ đồng thời vừa chơi nhạc (có 5 loại nhạc cụ chính: nguyệt, cảnh, phát, trống và thanh la) vừa hát. Để có thể vừa chơi nhạc và hát văn trong các buổi hầu đồng thì các cung văn vừa phải giỏi ngón đàn, hay giọng hát, mà còn phải thông hiểu nghi lễ, nắm được lễ luật và trình tự hầu đồng, nhanh nhạy trong phối hợp với các hành động nghi lễ và các điệu múa của người hầu đồng. Bởi thế sự phối hợp giữa lời hát, âm nhạc của cung văn với hành động cúng lễ nhảy máu của người hầu đồng trở thành yêu cầu nghiêm ngặt, không thể tùy tiện. Do yêu cầu đó, cung văn cũng dần phải bài bản chuyên nghiệp hoặc phải được đào tạo từ thầy cung văn nhiều năm trong nghề. Xưa kia người ta còn tổ chức hát văn thi để tuyển lựa các cung văn giỏi. Đó là các nghệ nhân vừa có khả năng trình diễn vừa có khả năng sáng tác các bài văn, các giai điệu hát văn, làm phong phú hơn kho tàng các lời hát văn và âm nhạc chầu văn này.

Thực ra, âm nhạc và lời hát văn đứng tách ra đã có sức truyền cảm và lôi cuốn người nghe, nó cũng giống lời hát chèo, cải lương, quan họ… Tuy nhiên, âm nhạc và lời hát văn phải được đặt trong khung cảnh của diễn xướng hầu bóng, đặt trong sự hòa hợp với các hành động nghi lễ (dâng cúng, phán truyền, phát lộc…) và đặc biệt là với các động tác múa đồng.

Trong diễn xướng của dân gian của người Việt, ta ít thấy hình thức kết hợp cùng một lúc âm nhạc, hát và múa như Hầu đồng. Tuy nhiên, nếu tách riêng từng yếu tố đó ra thì ta vẫn thấy nó có những sắc thái riêng, ví dụ như âm nhạc và hát chầu văn cũng như múa Hầu đồng.

Ban Nghiên cứu VHTN phía Nam

 

 

Tags:

Bài viết khác

Các nghi lễ trong thờ cúng tổ tiên của người Việt

Thờ cúng tổ tiên là một trong những phong tục truyền thống quan trọng trong văn hóa dân tộc Việt Nam. Đây là một cách thể hiện lòng hiếu thảo, tôn kính và nhớ về cội nguồn của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Các nghi thức, nghi lễ trong thờ cúng tổ tiên thường được thực hiện trong các dịp đặc biệt như Tết Nguyên Đán, ngày giỗ tổ, lễ cúng ông Công ông Táo, và nhiều dịp quan trọng khác. Dưới đây là một số nghi thức và nghi lễ phổ biến trong thờ cúng tổ tiên:

Văn hóa cúng tiền chủ trong tín ngưỡng dân gian

Trong tín ngưỡng dân gian, cúng tiền chủ là một phong tục phổ biến tại nhiều gia đình, đặc biệt vào các ngày Rằm, Mồng Một, Giỗ Tết hoặc khi có điều gì không ổn trong nhà. Người ta tin rằng tiền chủ là người đã sống và qua đời trước tiên trong ngôi nhà này, và dù thời gian trôi qua, ngôi nhà có thể chuyển từ tay gia chủ này sang gia chủ khác, nhưng tiền chủ vẫn luôn dõi theo và thỉnh thoảng quay về thăm ngôi nhà cũ.

Những nguyên tắc khi bốc bát hương thờ cúng: Quy tắc và ý nghĩa tâm linh

Trong tín ngưỡng thờ cúng của người Việt, bát hương (lư hương) đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nó không chỉ là một vật phẩm trang trí trên bàn thờ mà còn là nơi để giao tiếp giữa thế giới trần gian và thế giới tâm linh. Tuy nhiên, việc lập bát hương không phải là điều đơn giản, và có những nguyên tắc cần tuân thủ để việc thờ cúng được linh ứng.

Đình làng - thiết chế văn hóa tín ngưỡng

Đình làng có vị trí, vai trò quan trọng trong xã hội Việt Nam thời phong kiến, nhất là vùng đồng bằng Bắc bộ. Đình làng được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ra đời vào thời Lê –Mạc, là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng, một biểu tượng của tính cộng đồng, trung tâm văn hóa, hành chính của làng xã truyền thống.

Nhà Lớn Long Sơn và Lễ hội Trùng Cửu: Dấu ấn tín ngưỡng bản địa Nam Bộ

Mỗi năm, vào các ngày 7, 8 và 9 tháng 9 âm lịch, người dân đảo Long Sơn (TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũ, nay là xã Long Sơn, Tp. Hồ Chí Minh) lại nô nức hướng về Nhà lớn Long Sơn để tham dự Lễ hội Trùng Cửu – một trong những lễ hội truyền thống lớn và giàu ý nghĩa nhân văn bậc nhất của vùng đất biển này.

Tín ngưỡng Giàng Knée – Sợi dây thiêng liêng kết nối cộng đồng người Pa Cô

Đối với người Pa Cô nói riêng và đồng bào các dân tộc thiểu số miền Tây Quảng Trị nói chung, thế giới luôn tồn tại song song hai chiều không gian: trần thế và linh giới. Trong đó, vạn vật – từ con người đến cây cỏ, muông thú – đều có linh hồn và chịu sự chi phối của các thế lực siêu nhiên. Quan niệm này hình thành nên tín ngưỡng vạn vật hữu linh, gắn bó sâu sắc với đời sống văn hóa – tinh thần của cộng đồng.

Quan niệm về Thiên đường và Địa ngục trong tín ngưỡng dân gian của người Tày, Nùng

Trong hệ thống tín ngưỡng dân gian của người Tày và Nùng, tồn tại một vũ trụ quan phân tầng, nơi các lực lượng siêu nhiên được chia thành nhiều loại, cư ngụ tại các không gian khác nhau và có mối quan hệ tác động qua lại với con người. Một trong những biểu hiện đặc trưng là niềm tin vào các loại "phi" (ma, linh hồn), cũng như quan niệm về Thiên đường và Địa ngục (âm phủ).

Những loại hoa, quả nên thắp ngày Tết Đoan Ngọ

Chọn đúng hoa, chọn kỹ quả vào ngày Tết Đoan Ngọ không chỉ để dâng lên tổ tiên mà còn thể hiện sự hiểu biết, giữ gìn nếp nhà và bản sắc truyền thống giữa nhịp sống hiện đại.
Top