banner 728x90

Thành hoàng có nguồn gốc Nhiên thần và Thủy thần

16/06/2024 Lượt xem: 2543

Thành hoàng có nguồn gốc Nhiên thần

Tức các vị thần mang dạng là thần Nước (Thủy thần), thần Đất (Thổ thần), Thần Núi (Sơn thần), Thần có dạng là các con vật, đồ vật…

Thành hoàng là Sơn thần

Chiếm số lượng rất lớn trong số các vị thần nói chung cũng như các vị Thành hoàng nói riêng. Điều này cũng dễ hiểu vì trong vũ trụ luận nguyên sơ phương Đông thì Sơn – Thủy, Đất – Nước là cặp đối lập, tương khắc tương sinh, tạo nên môi trường sống quen thuộc và cảnh quan của các cư dân nông nghiệp. Con người sống phải nhờ vào đất và nước, dưới sự phù hộ độ trì của các thần linh Sơn – Thủy này.

Các Sơn thần, tùy theo các địa phương mà có các danh thần khác nhau: Cao Sơn thần, Cao Sơn Đại Vương, Cao Sơn Quý Minh, Quý Minh Đại Vương, Cao Sơn Viết Minh, Đại Vương Sơn Thần, Sơn Tinh, Cao Các Đại Vương, Sơn Tiêu Độc Cước, Tam Vị Sơn Thần, Cao Hiểu, Cao Khánh, Đông Nhạc Thần, Trung Nhạc Thần, Tây Nhạc Thần, Cao Sơn Lập Thạch, Miêu Sơn Kiều Lộ…

Trong các Sơn thần kể trên, phổ biến hơn cả là thần Tản Viên, Cao Các Đại Vương, Cao Sơn và Quý Minh, trong đó Cao Sơn và Quý Minh gắn bó chặt chẽ với Tản Viên. Có nơi, dân gian quan niệm hai vị trên là con của Tản Viên (Sơn Tinh) hay họ là hai anh em ruột trong số 50 người con của Lạc Long Quân…

Diện phân bố thờ cúng các Thành hoàng là Sơn thần rất rộng, ở hầu khắp mọi nơi, tuy nhiên tập trung hơn cả là ở Hà Nội, nhất là Sơn Tây vùng ven núi Ba Vì (núi Tản Viên). Sau đó là ở các tỉnh Trung Bộ, như Thanh Hóa, Nghệ An…

Thành hoàng có nguồn gốc Thủy thần

Đối lại các Sơn thần là hệ thống các Thành hoàng có nguồn gốc Thủy thần. Trong số các Thủy thần này có vị là Thủy thần rõ rệt, nhưng cũng không ít vị đã “nhân thần hóa” trở thành các vị thần có tên tuổi, gốc tích, là các nhân vật lịch sử…

Các vị Thành hoàng có nguồn gốc Thủy thần cũng tùy theo địa phương mà mang các danh thần khác nhau: Long Vương, Đại Càn, Tam Giang, Đông Hải Đại Vương, Nam Hải Đại Vương, Thủy Tề Đại Vương, Tây Hải Đại Vương, Linh Lang Đại Vương, Bát Hải Đại Vương, Thủy Tề Đại Vương, Nam Hải Tứ vị Hồng Nương, Vĩnh Hải Mồn Thần, Trương Hống – Trương Hát, Tống Hậu… Trong các danh thần có nguồn gốc Thủy thần kể trên thì có vị là thần biển (Nam Hải Đại Vương, Bát Hải Đại Vương…), có vị là thần sông, hồ, đầm (Linh Lang, Tam Giang, Trương Hống – Trương Hát…)

Các địa phương thờ Thủy thần thường là nơi ven biển, ven sông lớn (sồng Hồng, sông Cầu, sông Đáy…), các hồ, đầm.

Các vị thần được thờ phụng phổ biến hơn cả là các Thần biển dưới các danh thần: Đại Càn, Nam Hải Đại Vương, Đông Hải Đại Vương, Long Thần, Tống Hậu, Thánh Nương…,trong đó Đông Hải Đại Vương thường mang danh là Đoàn Thượng hay Đức Thánh Cả. Ở ven biển Trung Bộ vị thần biển này hiện hình là Cá Voi – Cá Ông – Thờ Đức Ông. Còn các Thần sông được thờ phụng phổ biến hơn cả dưới các danh thần: Tam Giang Linh Lang, Trương Hống – Trương Hát…

Gắn với các Thủy thần thường có các thần mang dạng Rắn, Cá, Rồng, Ba Ba… Như các Long Vương thường mang dạng Rồng, thần sông mang dạng Rắn, Ba Ba (Hà Bá), thần biển mang dạng Cá – Cá ông.

Ban Nghiên cứu Tôn giáo

 

Tags:

Bài viết khác

Phong tục cúng giỗ đầu trong văn hóa của người Việt

Giỗ đầu còn gọi là Lễ tiểu tường, là ngày giỗ đầu tiên, tổ chức sau ngày người mất đúng một năm. Đây cũng chính là một nét văn hóa đặc trưng của người Việt từ xa xưa cho đến hiện nay.

Sự khác biệt trong phong tục thờ cúng giữa người Hoa với người Việt

Dù chịu ảnh hưởng bởi lối sống của người Việt nhưng người Hoa vẫn giữ được những phong tục riêng, đặc biệt là phong tục thờ cúng. Chính việc giữ gìn phong tục này đã tạo nên sự khác biệt độc đáo giữa người Việt và người Hoa, góp phần làm đa dạng bản sắc văn hóa của các dân tộc.

Hình tượng chim hạc trong đời sống tâm linh người Việt

Chim Hạc với hình ảnh nhẹ nhàng, tinh tế uyển chuyển là biểu trưng cho điềm lành, thanh cao thoát tục, trường thọ và hạnh phúc. Người dân dùng hình tượng Hạc để biểu thị mong ước ấm êm, gia đình vui vẻ.

Vai trò của bản hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Bản hội chính là một loại hình cộng đồng tôn giáo, tín ngưỡng. Cộng đồng này được cố kết với nhau bởi có cùng niềm tin vào sự độ trì của các vị thần trong tín ngưỡng thờ Mẫu và có chung một đồng thầy với những năng lực đặc biệt. Những phân tích lý thuyết về mối quan hệ giữa cộng đồng và di sản văn hóa đã chỉ ra vai trò chủ thể sáng tạo, thực hành, bảo vệ và trao truyền di sản của cộng đồng. Không có cộng đồng ắt sẽ không có di sản.

Tứ Phủ Thánh Cô trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Tứ Phủ Thánh Cô gồm Thập Nhị Thánh Cô (Mười hai cô). Trong Đạo Mẫu, Tứ Phủ Thánh Cô đứng sau Ngũ Vị Tôn Ông, Tứ Phủ Chầu bà, Tứ Phủ Quan Hoàng, đứng trên Tứ Phủ Thánh Cậu.

Tục thờ cúng bà Mụ trong tín ngưỡng người Việt

Lễ cúng Mụ thịnh hành trong một số dân tộc châu Á trong đó có dân tộc Việt, và thường được tổ chức vào những thời điểm khi đứa trẻ mới sinh được 3 ngày (ngày đầy cữ), 1 tháng (ngày đầy tháng) và 1 năm (ngày thôi nôi).

Hành lễ trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Cũng như các tôn giáo, tín ngưỡng khác, tín ngưỡng thờ Mẫu cũng có những nguyên tắc nhất định trong việc hành lễ. Hành lễ trong tín ngưỡng thờ Mẫu là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện.

Tứ Phủ Thánh Cậu trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Tứ Phủ Thánh Cậu gồm có 12 Thánh Cậu, là các hình tượng nam thiếu niên, nhanh nhẹn, xông xáo, mạnh mẽ, hiếu động và thường là hầu cận của một vị thánh quan trong Tứ Phủ Quan Hoàng.
Top