banner 728x90

Người mở cõi – Vị khai quốc công thần đất Đồng Nai

19/06/2025 Lượt xem: 2364

Toàn cảnh Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh tại phường Hiệp Hòa, Tp.Biên Hòa

Cách đây 327 năm, vào mùa xuân năm 1698, theo lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh dẫn binh thuyền xuôi dòng sông Sài Gòn rồi ngược dòng Đồng Nai, đặt chân đến vùng Cù Lao Phố. Với tầm nhìn chiến lược và phẩm chất của một nhà kiến thiết, ông đã nhanh chóng thiết lập dinh Trấn Biên, ổn định trật tự, khai sinh hệ thống hành chính cho vùng đất hoang hóa rộng lớn, mở đầu cho quá trình xác lập chủ quyền của Đàng Trong trên phần đất Nam Bộ ngày nay.

Nguyễn Hữu Cảnh không chỉ là một tướng lĩnh tài ba mà còn là một nhà tổ chức lỗi lạc, người có công đầu trong việc định cư hóa vùng đất phương Nam, biến hoang địa thành làng xóm trù phú. Ông lập sổ bộ dân cư, tổ chức đời sống, thiết lập bộ máy hành chính, đưa luật lệ vào vùng đất mới, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của cả miền Đông Nam Bộ và miền Tây Nam Bộ sau này.

Năm 1700, ông mất trong khi đang làm nhiệm vụ tại Rạch Gầm – Mỹ Tho. Nhân dân Biên Hòa, vốn khắc ghi công lao khai sáng, đã lập đền thờ và hàng năm tổ chức lễ giỗ để tưởng nhớ vị tiền hiền. Đình Bình Kính (trước là đình Bình Hoành) ra đời từ tâm nguyện ấy – không chỉ là nơi thờ phụng mà còn là biểu tượng sống động cho lòng tri ân sâu sắc của nhân dân Đồng Nai với bậc khai quốc công thần.

Lễ giỗ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh không chỉ là nghi lễ tín ngưỡng dân gian mang tính địa phương mà còn là dịp để cộng đồng người dân vùng đất phương Nam cùng nhau ôn lại cội nguồn lịch sử, củng cố tinh thần “uống nước nhớ nguồn” và khơi dậy niềm tự hào về hành trình mở cõi vĩ đại của tổ tiên.

Người dân dâng hương tại Lễ giỗ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh

Hằng năm, cứ đến ngày 16 tháng 5 âm lịch, người dân khắp nơi lại tụ hội về đền thờ tại phường Hiệp Hòa để dâng hương, tế lễ, đọc chúc văn, tái hiện các nghi thức truyền thống như rước lễ vật, thả phúc khí cầu, biểu diễn nghệ thuật dân gian… Không chỉ có các ban quý tế từ các đình làng ở Đồng Nai, lễ giỗ còn thu hút sự tham gia của các đoàn học sinh – sinh viên, nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, và người dân từ các tỉnh lân cận như Bình Dương, TP.HCM, Long An…

Việc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chính thức ghi danh lễ giỗ Nguyễn Hữu Cảnh vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2025 không chỉ là sự ghi nhận về mặt giá trị văn hóa – lịch sử mà còn là lời khẳng định rõ ràng về vai trò to lớn của ông trong tiến trình hình thành lãnh thổ quốc gia. Đồng thời, đây cũng là bước tiến trong việc bảo tồn và phát huy di sản, khuyến khích thế hệ trẻ tiếp nối truyền thống và nhận thức sâu sắc hơn về công cuộc mở đất phương Nam – một chương quan trọng của sử Việt.

Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, việc tôn vinh các giá trị lịch sử – văn hóa truyền thống càng trở nên cấp thiết. Lễ giỗ Đức ông Nguyễn Hữu Cảnh không chỉ là một sự kiện tưởng niệm, mà còn là một không gian cộng đồng sống động – nơi ký ức lịch sử được sống lại, nơi lòng biết ơn và ý thức trách nhiệm với quá khứ được truyền lửa sang các thế hệ sau.

Lễ giỗ Nguyễn Hữu Cảnh năm 2025 vừa qua với quy mô mở rộng, nội dung phong phú và chiều sâu văn hóa – tâm linh, đã và đang trở thành điểm nhấn trong chuỗi sự kiện văn hóa – lịch sử tiêu biểu của Đồng Nai và cả Nam Bộ. Đây cũng là cơ hội để kết nối cộng đồng, thu hút du khách, học sinh, sinh viên, qua đó góp phần giáo dục truyền thống, hun đúc tinh thần yêu nước, gắn bó với quê hương – đất nước.

Từ một nghi lễ dân gian tưởng niệm người có công với vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, đến một di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, lễ giỗ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh là minh chứng cho giá trị bền vững của lịch sử, cho tinh thần “khai sơn phá thạch” của cha ông, và cho mạch nguồn văn hóa phương Nam luôn sống động, lan tỏa. Đó không chỉ là ký ức của một thời mở đất, mà còn là ngọn đuốc soi đường cho thế hệ hôm nay và mai sau tiếp bước vững chắc trong công cuộc dựng xây và bảo vệ Tổ quốc.

Đào Quốc Thịnh

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tags:

Bài viết khác

Lăng Văn Sơn: Nét chạm của di sản trong đô thị hiện đại

Giữa nhịp phát triển sôi động của vùng Tây Hà Nội, Lăng Văn Sơn – di tích lịch sử quốc gia tại xã Tân Hội, huyện Đan Phượng – vẫn là biểu tượng văn hóa, điểm tựa tâm linh và niềm tự hào của người dân địa phương. Nơi đây không chỉ gắn với vị tướng Văn Dĩ Thành – người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV – mà còn lưu giữ những giá trị trường tồn của vùng đất Tổng Gối anh hùng.

Hình tượng Dê trong văn hóa thế giới và nghệ thuật truyền thống Việt Nam.

Hình tượng con dê là một biểu tượng phổ biến trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, với ý nghĩa đa dạng từ tôn giáo, triết lý đến nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian. Tại Việt Nam, con dê không chỉ là động vật quen thuộc trong đời sống nông nghiệp mà còn giữ vị trí biểu tượng trong nghệ thuật tạo hình và kiến trúc truyền thống.

Bảo tàng – Thư viện Bà Rịa - Vũng Tàu: Hành trình đưa di sản văn hoá đến gần hơn với du khách

Không chỉ lưu giữ ký ức, di sản văn hóa còn là nhịp cầu kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa người dân và quê hương, giữa du khách và những câu chuyện lịch sử tưởng như đã lùi xa. Ở thành phố du lịch biển Vũng Tàu – hành trình ấy đang được tiếp nối sáng tạo và nhân văn qua nỗ lực không ngừng của Bảo tàng – Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Ý nghĩa biểu tượng của tượng Phật Bà Quan Âm nghìn tay nghìn mắt - Di sản vô giá của dân tộc

Sự sùng bái Bồ tát Quan Âm có liên quan mật thiết đến sự phát triển của Tịnh độ tông và Mật tông, cụ thể là tư tưởng “Tịnh Mật hợp nhất”. Chính tại thời điểm giao thoa của hai tông này mà sức sáng tạo các hình tượng Bồ tát Quan Âm ngày càng trở nên phong phú, đa dạng.

Áo Nhật Bình: Một di sản văn hóa quý của Cố đô Huế

Áo Nhật bình vốn là loại triều phục dành cho bậc hậu, phi, cung tần và công chúa thời Nguyễn, nay đã trở thành loại trang phục phổ biến của phụ nữ Huế trong dịp hôn lễ và ngày càng được các bạn nữ trẻ Việt Nam yêu thích sử dụng khi đi ngoạn cảnh, check in…

Di tích Lịch sử - Văn hóa là gì? Tiêu chí, phân loại di tích lịch sử văn hóa

Di tích Lịch sử - Văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm, hiện vật, di vật, đồ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có liên quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá, xã hội một dân tộc, một đất nước. Di tích lịch sử - văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau:

Những nhạc cụ “thổi hồn” cho Di sản Văn hóa hát Then

Hát Then trong đời sống, văn hoá tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào Tày, Nùng, Thái vùng cao phía Bắc được ví là "điệu hát thần tiên", điệu hát của “Trời”. Nghệ thuật diễn xướng dân gian này ẩn chứa và phô diễn những giá trị lịch sử, văn hóa lâu đời. Trong hát Then, đàn Tính và chùm Xóc Nhạc là hai loại nhạc cụ không thể thiếu. Hai loại nhạc cụ này vừa có chức năng giữ nhịp, đệm cho hát, vừa có khả năng diễn tấu linh hoạt, đặc biệt còn được sử dụng như đạo cụ trong những điệu múa Then.

Điều kiện di tích lịch sử văn hóa được xếp loại là di tích quốc gia

Theo quy định tại Điều 29 Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi bởi khoản 10 Điều 1 Luật Di sản văn hóa sửa đổi năm 2009, việc phân loại di tích lịch sử và văn hóa phải dựa trên những điều kiện về giá trị lịch sử và văn hóa. Các điều kiện này được quy định rõ ràng nhằm xác định và bảo vệ các di tích có giá trị quan trọng đối với quốc gia và dân tộc. Cụ thể, các di tích được phân loại dựa trên bốn điều kiện cơ bản:
Top