banner 728x90

Phong tục ứng xử tinh tế trong mâm cơm của người Việt

19/12/2024 Lượt xem: 2799

Người Việt từ xưa đến nay vốn coi trọng văn hóa ứng xử, đặc biệt là trong văn hóa ứng xử ở mâm cơm. Người Việt coi đó là một trong những tiêu chuẩn đánh giá phần nào trình độ; phẩm cách của một cá nhân, một gia đình. Chúng ta thường hay được dạy rằng “Học ăn, học nói, học gói, học mở.”  Không có một quy định rõ ràng nhưng những nguyên tắc ứng xử xung quanh mâm cơm dần trở thành quy luật bất thành văn của người Việt. 

Bữa cơm của người Việt mang nhiều ý nghĩa; không chỉ đơn thuần là ăn cho no bụng mà nó còn hàm chứa nhiều ý nghĩa văn hóa. Bởi bữa cơm chính là linh hồn, là hạnh phúc; là nơi để các thành viên trong gia đình nuôi dưỡng và bồi đắp tình cảm, sự yêu thương, gắn bó.

Người Việt gắn bó với nên nông nghiệp lúa nước nên từ ngàn xưa cơm đã trở thành món ăn chính. Họ dùng từ “cơm” để gọi tên các bữa ăn như “mâm cơm”, “bữa cơm”, “thổi cơm”. Bên cạnh cơm, một bữa ăn chuẩn Việt cần đến các món rau, món canh và món mặn như thịt, cá, tôm…

Mâm cơm của người Việt có hình tròn thể hiện tính cộng đồng; tượng trưng cho sự sum vầy, đầy đặn và hạnh phúc viên mãn. Các món ăn sẽ được bày cùng một lúc sao cho vừa mâm trong đó nước chấm ở giữa; các món rau và thịt bày xen kẽ nhau xung quanh sao cho đẹp mắt. Trong khi ăn, mọi người ngồi quây quần bên mâm cơm; cùng nhau trò chuyện để tăng thêm không khí vui vẻ cho bữa cơm.

Việc dùng đũa trong bữa ăn đã xuất hiện từ rất lâu đời và cùng với dòng chảy của thời gian, người Việt Nam bắt đầu hình thành nét văn hóa trong việc sử dụng đũa.

Trước khi cầm đũa, phải xếp hai đầu đũa cho đều nhau, lúc sử dụng chỉ động tới cạnh trên của đũa; dùng 3 đầu ngón tay: ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa nhẹ nhàng cầm đũa. Trẻ con được dạy rằng, trước bữa ăn phải so đũa; chú ý đến đầu đũa có đúng hướng hay không; sau bữa ăn phải đặt đũa xuống một cách ngay ngắn, không nên để đũa bị so le hay xô lệch.

Không gắp thức ăn đưa thẳng vào miệng mà phải đặt vào bát riêng rồi mới ăn. Không dùng thìa đũa cá nhân của mình khuấy vào tô chung. Không xới lộn đĩa thức ăn để chọn miếng ngon hơn. Không cắm đũa dựng đứng vào bát cơm. Không nhúng cả đầu đũa vào bát nước chấm. Phải trở đầu đũa khi muốn tiếp thức ăn cho người khác. Những nguyên tắc nghe có vẻ giáo điều này thật ra lại giúp cho bữa ăn trở nên vệ sinh và giữ tính lịch sự trong ăn uống.

Tục mời cơm của người Bắc là cả một nét đẹp trong văn hóa ứng xử. Chính những lời mời tưởng chừng như vô thức ấy đã giáo dục cho con người ta hiểu lẽ biết ơn; biết nhận diện những hạnh phúc đơn thuần, bình dị, cũng là để biết trân quý, tôn trọng sự có mặt của nhau.

Khi mời cơm phải mời từ người lớn tuổi nhất trong nhà như ông bà rồi mới tới cha mẹ và anh chị. Lời mời phải nhẹ nhàng; lễ phép đi kèm là hành động so đũa, lau bát cho người lớn tuổi hơn; thể hiện sự kính trọng bề trên trong bữa ăn nói riêng và trong văn hóa ứng xử nói chung.

Người Việt rất coi trọng bữa cơm nên luôn tạo cảm giác thoải mái và ấm cúng trong suốt bữa ăn. Nếu bạn là một vị khách trong bữa cơm ấy thì bạn nên chú ý vài quy tắc để giữ lịch sự; và đáp lại sự hiếu khách của gia chủ một cách văn hóa và tế nhị.

Khi ăn, không nên ngồi quá sát mâm hay quá xa mâm cơm để vừa tay gắp đồ ăn trong mâm. Tuyệt đối tránh cơm đầy trong miệng mà nói, cũng không được thổi đồ ăn nóng mà phải múc chậm phần nguội hơn ở sát thành bát. Khi nhai, tối kỵ chép miệng hay tạo ra tiếng ồn khi ăn. Bạn nên chú ý cách chấm đồ ăn, chỉ nhúng phần thức ăn; không nhúng đầu đũa vào bát chấm, miếng đã cắn dở không được chấm.

Dù là trong khuôn khổ gia đình hay khi làm khách, tuyệt đối không chê khi món ăn chưa hợp khẩu vị mình. Điều này tưởng chừng như đơn giản mà lại cực kỳ có ý nghĩa trong việc giáo dục nhân cách con người. Bởi nó có thể không ngon với người này nhưng ngon với người khác; và dù gì món ăn đó cũng được làm nên từ công sức, tâm huyết của người chế biến. Vì vậy chúng ta không ai có quyền phê phán hay chê bai.

Bữa cơm gia đình của người Việt ẩn chứa nhiều đạo lý; thể hiện tình cảm yêu thương gắn bó giữa các thành viên trong gia đình; đồng thời thể hiện nét văn hóa ứng xử khéo léo của người Việt. Những nguyên tắc ngầm này không được ghi chép thành sổ sách; hay trở thành bài giảng nhưng bất cứ đứa trẻ nào cũng phải học bởi đó là nét đẹp; là truyền thống dân tộc từ bao đời nay.

Nết ăn là nết người, do đó, cần phải giữ phép lịch sự và tôn trọng những quy tắc trong bữa ăn. Mặc dù ngày nay, nhiều gia đình đã thoáng hơn trong cách ăn uống, không quá khắt khe, nguyên tắc nhưng phép lịch sự luôn được đặt lên hàng đầu. Thế mới thấy nét tinh tế trong văn hóa của người Việt.

Nguồn: thegioihaisan.vn

 

Tags:

Bài viết khác

Tết Thanh minh của người Dao

Tết Thanh minh không chỉ là dịp để tưởng nhớ tổ tiên mà còn là một nét văn hóa đặc sắc của nhiều dân tộc thiểu số, trong đó có người Dao Quần Chẹt ở các tỉnh Tuyên Quang, Hòa Bình, Vĩnh Phúc. Đây là dịp để con cháu sum vầy, thể hiện lòng thành kính với bậc tiền nhân, đồng thời lưu giữ những phong tục truyền thống.

Nét văn hóa trong trang phục dân tộc H’mông

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H’mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Cùng với tiếng nói, chữ viết, trang phục cũng là một trong những chi tiết quan trọng đầu tiên để nhận biết và phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Trang phục truyền thống không chỉ mang đậm bản sắc văn hóa, mà còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật, giá trị lịch sử của từng tộc người.

Những tấm dệt đan sắc núi rừng

Giữa sắc thẫm của đại ngàn Trường Sơn, đây đó nổi lên màu trắng của những dải mây vành khăn ở lưng chừng núi, màu đỏ của hoa gạo, hoa chuối, màu xanh của cây cỏ, màu vàng của lá úa rơi rụng, hay màu tím của hoàng hôn, màu của những tia nắng tán sắc cuối chân trời khi chiều muộn… Tất cả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mà người Tà Ôi ở không gian sống của chính tộc người mình

Những điều cần biết về tục thờ Linga và Yoni của người Chăm

Tục thờ Linga và Yoni có nguồn gốc từ cộng đồng người sống ở vùng lưu vực sông Ấn, thuộc chủng tộc Sumerian và Dravidan. Tín ngưỡng của họ gắn liền với thần thoại về thần mẹ và sự thờ cúng âm lực, coi sinh thực khí là nguồn gốc của mọi sự sáng tạo.

Các phong tục cần biết khi đến các làng bản của người dân tộc

Đồng bào các dân tộc Bắc Hà nói riêng và Lào Cai nói chung rất hiếu khách, nhưng khi du khách đến thăm làng, bản nên chú ý những điều kiêng kỵ và cần biết một vài phong tục, tập quán sinh hoạt để tiện ứng xử và giao tiếp.

Nhuộm răng đen - Phong tục lâu đời của người Việt

Nhuộm răng đen là một tục lệ lâu đời, xuất hiện từ thời Hùng Vương, tồn tại suốt mấy ngàn năm trong lịch sử văn hóa của người Việt. Đây vốn là phong tục cổ truyền không chỉ của cư dân người Việt mà còn tồn tại ở cộng đồng các dân tộc như Thái, Mường, Dao, Lự, Si La,…Trong cộng đồng người Việt, tục nhuộm răng đen chủ yếu chỉ phổ biến ở khu vực miền Bắc và miền Trung, còn ở miền Nam không thấy dấu vết của phong tục này.

Thala – nét đẹp văn hóa cộng đồng của người Khmer

Trên đường vào các phum, sóc của đồng bào Khmer Nam Bộ, đi khoảng một vài cây số, ta dễ dàng bắt gặp những ngôi nhà từ vài mét đến vài chục mét vuông, nép dưới bóng chùa hay bóng cây. Đó là các điểm dừng, nghỉ cho khách đi đường, do bà con dân tộc Khmer xây dựng. Tiếng Khmer gọi đó là các “Thala” (Schla).

Nghề làm cốm dẹp truyền thống của người Khmer (Sóc Trăng)

Cốm dẹp là một món ăn đặc sản nổi tiếng của vùng Sóc Trăng, không chỉ là biểu tượng văn hóa đặc trưng của địa phương mà còn gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ. Món ăn này không chỉ được sử dụng trong những bữa ăn hàng ngày mà còn là một phần không thể thiếu trong các dịp lễ quan trọng, đặc biệt là Lễ cúng Trăng - một sự kiện tôn giáo quan trọng của người Khmer.
Top