
Bỉ là một quốc gia nhỏ nằm ở Tây Âu, phía Bắc giáp với Hà Lan, phía Đông giáp với Đức, phía Đông Nam giáp Luxembourg, phía Nam và phía Tây giáp với Pháp. Bỉ có dân số khoảng 11,6 triệu người và có diện tích khoảng 30.500 km2. Thủ đô của Bỉ là Brussels.
Nhắc đến du lịch nước Bỉ là người ta nhắc đến bức tượng chú bé đứng tè (Manneken Pis). Ở Bỉ có nhiều bức tượng…tè, nhưng “chú bé đứng tè” là bức tượng nổi tiếng nhất nước Bỉ.
Bức tượng đồng Manneken Pis cao 61 cm đặt ở góc phố Rue de l’Etuve Rue des Grands Carmes, phía Tây Nam của Tòa thị chính thành phố ở Brussels, hoàn thành vào năm 1619 bởi bậc thầy điêu khắc Hieronimus Duquesnoy the Elder.

Bức tượng “chú bé đứng tè” nổi tiếng nhất nước Bỉ.
Dù không phải một tác phẩm nghệ thuật "hùng vĩ" hay "đồ sộ", nhưng với người dân Bỉ, Manneken Pis lại có ý nghĩa đặc biệt và mang trong mình những truyền thuyết. Bức tượng kể về một câu chuyện lịch sử trong chiến tranh là khi quân đội Tây Ban Nha rút khỏi Brussels, họ đã dự định đốt toàn bộ thành phố bằng một quả bộc phá lớn. Một chú bé đã "tè" vào đường dây cháy chậm của quả bom này, khiến nó bị xịt và dập tắt nguy cơ nổ tung gây hỏa hoạn. Cả thành phố nhờ vậy được an toàn. Để tưởng nhớ, người ta đã cho dựng lên bức tượng “chú bé đứng tè”.
Đáng chú ý hơn là ngay trong dịp Quốc khánh Việt Nam (ngày 02/9/2025), chính quyền thành phố Brussels (Bỉ) đã đăng tải hình ảnh bức tượng nổi tiếng “chú bé đứng tè” mặc áo dài để chúc mừng dịp lễ 2/9. Bức ảnh đi kèm dòng mô tả: “Sáng nay Manneken-Pis mặc trang phục Việt Nam ‘Áo dài’ nhân dịp Quốc khánh Việt Nam 02/9”.

Tác giả chụp hình lưu niệm bên bức tượng “chú bé đứng tè” tại thành phố Brussels (Bỉ).
Không chỉ câu chuyện tè của chú bé đứng tè được nhiều du khách quan tâm, mà ngay cả chuyện đi tè thực tế của du khách khi đi du lịch Bỉ và châu Âu cũng là vấn đề không thể không bàn đến. Nếu ai đó hỏi tôi, đi châu Âu quan tâm đến vấn đề gì nhất, thì tôi trả lời ngay và luôn rằng: “Chuyện đi tè” (cười)
Ở châu Âu không phải cứ muốn đi tè là được đi tè. Tè không đúng nơi, đúng chỗ sẽ bị phạt rất nặng. Đã thế các chặng di chuyển lại xa, mỗi chặng vài trăm kilomet thường phải đi mất hơn 2 tiếng, có khi là hơn 3 tiếng (nếu tắc đường) nên vì thế mà suốt ngày hướng dẫn viên du lịch phải nhắc nhở chuyện đi tè, giống như mấy đứa con nít lần đầu tiên đi nhà trẻ bị cô trông giữ trẻ nhắc vậy. Anh bạn đi cùng tôi giọng hài hước: “Mất 1/3 thời lượng nhắc nhở chuyện đi tè, lại mất thêm 1/3 thời lượng nữa nhắc nhở chuyện trộm cắp… đúng là “Tư bản” cái gì cũng khổ” (cười).

Tác giả chụp hình lưu niệm bên bức tượng “chú bé đứng tè” tại Brussels (Bỉ) và nghệ sĩ đường phố (street performer) hóa trang theo phong cách Charlie Chaplin, mũ quả dưa (bowler hat), gậy, áo vest đuôi tôm, nơ cổ và khuôn mặt sơn trắng. Một dạng người tượng sống (living statue), thường thấy ở các quảng trường hoặc khu phố cổ châu Âu.
Quả đúng như vậy. Khu vực công cộng rất đông khách du lịch nhưng chỉ có một nhà vệ sinh chung, tất nhiên là nhà vệ sinh nào ở châu Âu cũng sạch bóng . Các khu vệ sinh xây rất tiết kiệm, diện tích nhỏ, chỉ có hai hoặc ba bồn tiểu (kể cả khu vệ sinh nữ cũng vậy) nên các đoàn khách tham quan du lịch mỗi khi dừng chân, đều phải lũ lượt xếp hàng nối đuôi nhau, giống như xếp hàng mua gạo thời bao cấp để… đi tè, và mất cả nửa tiếng đồng hồ mới giải quyết xong chuyện tè của cả đoàn.
Tất nhiên đi tè ở châu Âu phải mất phí 1 EUR cho mỗi lần đi, tương đương với 31.000 (VNĐ). Đi tè thôi mà cũng mất tiền, đúng là “tư bản bóc lột” (cười). Có một lời khuyên cho những người đi du lịch châu Âu là nên đổi một ít tiền xu để đi tè. Tiền xu được đúc theo các mệnh giá 1, 2, 5, 10, 20 và 50 cent. Một đồng Euro tiền xu có giá trị bằng 100 cent.
Anh bạn tôi là nhà kinh tế phân tích rất chi li, nghe xong ai cũng choáng, muốn ngã bổ ngửa: “Này nhé! Mua 1 chai nước uống mất 2,5 Eur (tương đương với 80.000 (VNĐ), uống vào, rồi tè ra, một lần mất thêm tiền tè 31.000 đồng nữa, thành ra uống một chai nước mất hơn 111.000 đồng, đắt hơn mua một chai rượu xịn ở Việt Nam (đang nói chuyện uống nước, chuyện tè… lại quy ra rượu) (cười).
Chưa kể có lần anh ấy nhét 2 Eur vào máy vì không có tiền lẻ, và thật xui xẻo đúng lúc máy hết tiền lẻ nên không được trả lại. Qúa tốn kém vì đi tè một lần thôi cũng mà cũng mất 62.000 đồng (cười).
May mắn là trên xe du lịch nước uống miễn phí, nên không phải mua. Tuy nhiên, đi tè thì không hề miễn phí. Trước lối vào khu vệ sinh, có một máy thu tiền tè. Cứ bỏ 1 EUR vào là máy in cho cái phiếu thu bằng 2 đầu ngón tay và mở thanh chắn cho vào. Gần ngay khu vệ sinh là một cửa hàng tiện ích, bán đủ thứ như một siêu thị mini. Khi mua bất cứ món hàng gì ở đó, nếu quí khách xuất trình hóa đơn đi tè, sẽ được người bán khấu trừ 1 EUR vào giá bán cho mỗi hóa đơn. Các cụ tuổi cao, thận yếu, luôn được khấu trừ nhiều tiền khi mua hàng, vì các cụ có nhiều hóa đơn đi tè.

Quang cảnh thành phố Brussels (Bỉ).
Trong suốt hành trình di chuyển ở châu Âu, nhiều du khách trên xe không dám uống nước vì sợ phải đi tè, thế nhưng đến trạm dừng nghỉ, hướng dẫn viên vẫn ra rả nhắc nhở yêu cầu bắt buộc tất cả phải đi tè vì những chặng tiếp theo thời gian di chuyển cũng dài hai ba tiếng đồng hồ như vậy. Thế là cả đoàn lại tấp nập kéo nhau đi tè…như đi trẩy hội.
Có lần bốn năm bà lớn tuổi rủ nhau đi vào khu vệ sinh, nhưng loay hoay không biết đút tiền xu vào chỗ nào của máy thu tiền, nên đành quay về gọi hướng dẫn viên đi cùng để “phục vụ” (cười). Vì vậy để khỏi mất công, mỗi lần xe dừng nghỉ, hướng dẫn viên lại phải đứng canh cửa nhà vệ sinh cả nửa tiếng đồng hồ để phục vụ chuyện đi tè.

Tác giả chụp hình lưu niệm tại thành phố Brussels (Bỉ).
Không chỉ chuyện đi tè nan giải, ở châu Âu đi khám bệnh cũng phát sinh nhiều vấn đề bất cập. Không phải cứ muốn đi khám là khám như ở Việt Nam. Nếu không phải là trường hợp cấp cứu thì người dân phải đặt lịch khám chữa bệnh. Mấy tháng sau mới được gọi đến khám bệnh là chuyện bình thường. Có khi phải mất cả năm chờ đợi mới đến lượt được gọi đến khám chữa bệnh.
Nhìn chung, các nước có hệ thống y tế phát triển và dịch vụ cao cấp thường có chi phí đắt đỏ. Việc đặt lịch hẹn là thủ tục bắt buộc và phổ biến ở hầu hết các quốc gia châu Âu, kể cả các nước có chi phí thấp hơn, do nhu cầu cao và hệ thống quản lý lịch hẹn hiệu quả. Mới đây một phụ nữ gốc Việt tên Mai, 49 tuổi, ở Brussels (Bỉ) được hẹn khám u nang buồng trứng sau 6 tháng và phải chờ một năm rưỡi mới được mổ, chị cho rằng thủ tục này nếu ở Việt Nam chỉ mất một buổi sáng.
Chị được bác sĩ giải thích đây là khối u lành và không gây biến chứng nên có thể chờ lâu. Chị Mai kết hôn và định cư tại Bỉ từ năm 2005. Ban đầu, chị ít quan tâm đến hệ thống y tế của châu Âu cho đến khi phát hiện khối u nang buồng trứng năm 2006. Chị cho biết, mọi thủ tục đều phải đặt lịch hẹn, từ khám thường kỳ đến phẫu thuật và thời gian chờ đợi thường là vài tháng, thậm chí vài năm. Chỉ trường hợp cấp cứu mới được xử lý ngay. Muốn khám ngay, chi phí có thể gấp đôi, từ 30 USD cho một lần khám bác sĩ gia đình, lên hơn 60 USD tại phòng khám tư hoặc ngoài giờ. Phần này không được bảo hiểm chi trả và quá tốn kém nên chị chọn cách chờ đợi. Trải nghiệm của chị là cú vấp đầu tiên của nhiều người Việt khi đối mặt hệ thống y tế phương Tây, nơi quy trình chặt chẽ và chờ đợi là chuyện thường.
Một số người chọn cách mang thuốc từ Việt Nam sang, cất sẵn trong nhà để tự chữa. Ở Việt Nam, hầu hết các loại thuốc đều dễ mua, trong khi tại Bỉ, thuốc phải có đơn bác sĩ. Câu chuyện của chị Mai không phải là cá biệt. Hiện có khoảng 70% người nhập cư tại châu Âu cho biết gặp nhiều trở ngại và bất ngờ khi tiếp cận dịch vụ y tế, đặc biệt là với người gốc Á.
Không chỉ riêng ở Bỉ, một bạn tên Trang (định cư ở Anh), ngồi ghế cạnh tôi trên chuyến bay quá cảnh đến Sân bay Ashgabat cũng tiết lộ: “Người Việt về thăm quê hương thường kết hợp đi khám bệnh. Ở châu Âu khám bệnh vừa đắt, vừa khó khăn về thủ tục, trong khi ở Việt Nam khám bệnh vừa rẻ, vừa đơn giản…

Tác giả chụp hình lưu niệm tại thành phố Brussels (Bỉ).
Bỉ được chia thành ba vùng: Flanders, Wallonia và vùng Thủ đô Brussels. Flanders là khu vực phía Bắc nói tiếng Hà Lan, Wallonia là khu vực phía Nam nói tiếng Pháp và vùng Brussels là khu vực song ngữ, với cả tiếng Hà Lan và tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức.
Bỉ có khí hậu biển ôn hòa chịu ảnh hưởng bởi vị trí gần Biển Bắc và Đại Tây Dương. Mùa hè ở Bỉ nhìn chung mát mẻ với nhiệt độ trung bình dao động từ 20°C đến 25°C. Tuy nhiên, các đợt nắng nóng không thường xuyên có thể đẩy nhiệt độ lên cao hơn, lên tới 30°C. Những tháng mùa hè, từ tháng 6 đến tháng 9, thường có lượng mưa vừa phải. Mùa Đông ở Bỉ ôn hòa, không quá lạnh. Nhiệt độ trung bình trong những tháng mùa Đông, từ tháng 12 đến tháng 2, dao động từ 0°C đến 6°C. Có thể có tuyết rơi, đặc biệt là ở vùng Ardennes ở phía Nam, nhưng không liên tục dày đặc trên khắp đất nước. Bỉ có lượng mưa tương đối cao quanh năm. Lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ khoảng 700 đến 1.000 mm. Lượng mưa phân bổ tương đối đều trong năm, giai đoạn khô hơn một chút là vào mùa Xuân và đầu mùa Thu.

Quang cảnh đất nước Bỉ xinh đẹp.
Bỉ có lượng mây che phủ khá lớn quanh năm. Bầu trời u ám là hiện tượng phổ biến, đặc biệt là trong những tháng mùa Thu và mùa Đông. Tuy nhiên, cũng có những lúc nhiều nắng, đặc biệt là vào mùa hè. Sương mù tương đối phổ biến ở Bỉ, đặc biệt là trong những tháng lạnh hơn. Sương mù thường gặp ở những vùng trũng thấp và gần các vùng nước.
Thành phố Brussels (Thủ đô của Bỉ), nằm ở trung tâm châu Âu hay còn gọi là “Ngã tư châu Âu” được biết đến với sự đa dạng văn hóa, kiến trúc độc đáo và ẩm thực phong phú, là trung tâm giao thông huyết mạch với hệ thống đường sắt, đường bộ và hàng không hiện đại. Nằm ở trung tâm Vương quốc Bỉ, Brussels không chỉ là thủ đô mà còn là một điểm tham quan du lịch nổi tiếng thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới. Thành phố này sở hữu vẻ đẹp độc đáo pha trộn giữa nét cổ kính và hiện đại, cùng với di sản văn hóa phong phú và nền ẩm thực đa dạng. Điều này còn mở ra cánh cửa kết nối Brussels với phần còn lại của châu Áu và thế giới.
Brussels được coi là thiên đường cho những ai đam mê văn hóa và lịch sử. Thành phố này tự hào với những khu dân cư hiện đại xen kẽ với những tòa nhà cổ kính được trang trí bằng nghệ thuật độc đáo, mang đến một bức tranh sống động về sự hòa quyện giữa truyền thống và hiện đại. Tuy nhiên, theo tôi nếu không định cư mà chỉ đi du lịch châu Âu thôi thì cũng chỉ nên đi một lần cho biết, bởi quang cảnh và kiến trúc các nước đều na ná giống nhau.

Quang cảnh đất nước Bỉ xinh đẹp.
Quả cầu biểu tượng du lịch Bỉ chính là Atomium, một công trình kiến trúc độc đáo ở Brussels, được thiết kế giống như hình ảnh phân tử sắt mở rộng, bao gồm 9 quả cầu lớn kết nối với nhau bằng các đường ống. Atomium mang ý nghĩa là biểu tượng của sự tiến bộ khoa học, công nghệ và ngành công nghiệp thép, được lấy cảm hứng từ cấu trúc tinh thể của nguyên tử sắt, không chỉ là một điểm tham quan nổi tiếng mà còn là một bảo tàng, một trung tâm nghệ thuật và biểu tượng của sự tiến bộ khoa học, công nghệ của Bỉ.
Sở hữu những nét văn hóa đặc sắc và đa dạng, Brussels hấp dẫn du khách từ khắp nơi trên thế giới. Các địa danh không thể bỏ qua khi tới Brussels như Trụ sở Liên minh Châu Âu, Quảng trường Grand Place, Bảo tàng Hội hoạ Quốc gia Bỉ luôn tấp nập khách ghé thăm. Từ kiến trúc, trang phục, văn học đến ẩm thực, thành phố mang đến cho mọi du khách những trải nghiệm thật khó quên.

Quả cầu biểu tượng du lịch Bỉ.
Hơn ¼ dân số của thành phố Brussels là người ngoại quốc, chưa kể những người đã được cấp quốc tịch thì Brussels trở thành một trong những thành phố dân nhập cư và tạo nên sự đa dạng văn hóa cho thành phố này. Tuyến xe điện dài nhất thế giới là xe điện bờ biển Bỉ. Đường cao tốc của Bỉ có thể được nhìn thấy từ mặt trăng.
Đến Brussels nhất định phải ghé thăm quảng trường Grand Place (Bỉ). Quảng trường Grand Place (Bỉ) chính là điểm tham quan nổi tiếng và được check in nhiều nhất ở Brussels. Nơi đây có hàng chục tòa nhà nổi tiếng và được mệnh danh là một trong những quảng trường đẹp nhất châu Âu.
Quảng trường Grand Place (Bỉ) có tổng diện tích là 20.000 m2, xung quanh được bao bọc bởi rất nhiều kiến trúc đặc sắc, hoành tráng. Thực tế, có tên gọi là "Quảng trường Lớn" nhưng quảng trường lại khá khiêm tốn về diện tích so với các quảng trường khác ở châu Âu. Ấy vậy mà nhờ sự duyên dáng của mình, Grand Place được Victor Hugo đánh giá là một trong những quảng trường đẹp nhất ở châu Âu. Năm 1998, nơi đây được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản thế giới.

Quang cảnh thành phố Brussels (Bỉ).
Brussels không chỉ nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc độc đáo như Cung điện Hoàng Gia, thành phố này còn được mệnh danh là thủ đô Chocolate của thế giới với 16 bảo tàng về Chocolate và hơn 2.000 cửa hàng bán Chocolate.
Chocolate của Bỉ không có nhiều màu sắc như Chocolate của những nước khác, nhưng chỉ khi nếm thử người ta mới có thể cảm nhận thấy sự khác biệt. Từ dark-chocolate (đen) đến white-chocolate (trắng) hay fresh-chocolate (tươi), tất cả đều ngon đến ngỡ ngàng. Chocolate (Bỉ) luôn được bầu chọn là loại Chocolate ngon nhất thế giới từ trước đến nay. Người Bỉ ăn trung bình 8 kg Chocolate mỗi năm. Họ chi hơn 30 euro cho Chocolate mỗi năm và cứ 2.000 người dân thủ đô Brussels thì có một người ăn Chocolate.
Tuy nhiên từ lâu tôi đã không thích ăn Chocolate nên không mua. Những nhà sản xuất Chocolate lớn của Bỉ là công ty Godiva, Neuhaus, Leonidas... Hơn 2.000 cửa hàng Chocolate thuộc sở hữu của công ty tư nhân tại Bỉ. Chocolate Bỉ được đánh giá là ngon nhất thế giới và nước này sản xuất hơn 220.000 tấn Chocolate mỗi năm. Bỉ đã sản xuất Chocolate trong khoảng 400 năm qua. Cho đến ngày nay, tất cả Chocolate Bỉ đều phải chứa ít nhất 35% ca cao nguyên chất. Sân bay Zaventem là nơi Chocolate được bán nhiều nhất thế giới. Trung bình mỗi phút có 1,6 kg Chocolate bán ra! Có hơn 2.000 nhãn hiệu Chocolate tại Bỉ.
Ẩm thực Bỉ rất đa dạng và nổi tiếng với những đặc sản. Chocolate bánh quế (waffle), bia và khoai tây chiên (thường dùng kèm sốt mayonnaise) nổi tiếng khắp thế giới.

Tác giả chụp hình lưu niệm bên dưới quả cầu, biểu tượng du lịch Bỉ.
Bỉ trải qua quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng vào thế kỷ 19, trở thành một trong những quốc gia công nghiệp hóa hàng đầu thế giới. Trong Thế chiến thứ nhất, Bỉ bị Đức xâm lược vào năm 1914 và trở thành chiến trường lớn. trong Thế chiến thứ hai từ năm 1940 đến năm 1944, Bỉ lại bị Đức chiếm đóng lần 2.
Người Bỉ nhìn chung thực dụng và thực tế trong cách tiếp cận cuộc sống. Họ coi trọng hiệu quả, tổ chức và giải quyết vấn đề. Tư duy này được phản ánh trong nhiều khía cạnh khác nhau của xã hội Bỉ, bao gồm cả quản trị và cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên người Bỉ cũng có khiếu hài hước tinh tế. Họ đánh giá cao sự hóm hỉnh, mỉa mai và thích tham gia vào những câu nói đùa nhẹ nhàng.
Trong giao tiếp, người Bỉ có xu hướng dè dặt và lịch sự. Ban đầu, họ có thể tỏ ra dè dặt hoặc trang trọng khi gặp người mới, nhưng một khi mối quan hệ đã được thiết lập, họ có thể trở nên ấm áp và thân thiện. Người Bỉ coi trọng không gian cá nhân và sự riêng tư. Họ thường duy trì khoảng cách tôn trọng khi trò chuyện và có thể có thái độ dè dặt hơn ở nơi công cộng.

Quang cảnh đất nước Bỉ xinh đẹp.
Đào Quốc Thịnh